Part Two: The Journey to Vesali

The Four Noble Truths

Part Two: The Journey to Vesali

The Four Noble Truths

1. Now the Blessed One spoke to the Venerable Ananda, saying: "Come, Ananda, let us go to Kotigama."

1. Rồi Thế Tôn gọi tôn giả Ananda: "Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Kotigàma"

"So be it, Lord." And the Blessed One took up his abode at Kotigama together with a large community of bhikkhus.

- "Xin vâng, bạch Thế Tôn". Tôn giả Ananda đáp ứng Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Kotigàma. Tại đây, Thế Tôn ở tại Kotigàma.

2. And the Blessed One addressed the bhikkhus, saying: "Bhikkhus, it is through not realizing, through not penetrating the Four Noble Truths that this long course of birth and death has been passed through and undergone by me as well as by you. What are these four? They are the noble truth of suffering; the noble truth of the origin of suffering; the noble truth of the cessation of suffering; and the noble truth of the way to the cessation of suffering. But now, bhikkhus, that these have been realized and penetrated, cut off is the craving for existence, destroyed is that which leads to renewed becoming, and there is no fresh becoming."

2. Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Bốn Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi. Bốn Thánh đế ấy là gì ? Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Khổ Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Khổ Tập Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu Khổ Diệt Thánh đế... Khổ Diệt Đạo Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi. Này các Tỷ-kheo khi Khổ Thánh đế này được giác ngộ, được thông hiểu, khi Khổ Tập Thánh đế này được giác ngộ, được thông hiểu, khi Khổ Diệt Đạo Thánh đế này được giác ngộ, được thông hiểu, thời hữu ái được diệt trừ, sự dắt dẫn đến một đời sống được đoạn tuyệt, nay không còn hậu hữu nữa.

3. Thus it was said by the Blessed One. And the Happy One, the Master, further said:

3. Thế Tôn thuyết như vậy. Thiện Thệ lại nói thêm:

Through not seeing the Four Noble Truths,
Long was the weary path from birth to birth.
When these are known, removed is rebirth's cause,
The root of sorrow plucked; then ends rebirth.

- Chính vì không thấy như thật Bốn Thánh đế nên có sự luân chuyển lâu ngày trong nhiều đời. Khi những sự thực này được nhận thức, nguyên nhân của một đời sống khác được trừ diệt, khi khổ căn được đoạn trừ, sẽ không còn một đời sống khác nữa.

4. And also at Kotigama the Blessed One often gave counsel to the bhikkhus thus: "Such and such is virtue; such and such is concentration; and such and such is wisdom. Great becomes the fruit, great is the gain of concentration when it is fully developed by virtuous conduct; great becomes the fruit, great is the gain of wisdom when it is fully developed by concentration; utterly freed from the taints of lust, becoming, and ignorance is the mind that is fully developed in wisdom."

4.. Trong thời gian Thế Tôn ở Kotigama, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo: - Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.

5. When the Blessed One had stayed at Kotigama as long as he pleased, he spoke to the Venerable Ananda, saying: "Come, Ananda, let us go to Nadika."

5.. Thế Tôn, sau khi ở Kotigama cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn giả Ananda: - Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Nadika.

"So be it, Lord." And the Blessed One took up his abode in Nadika together with a large community of bhikkhus, staying in the Brick House.

- Xin vâng, bạch Thế Tôn! Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến. Nadika, tại ngôi nhà gạch (Ginjakàvasatha).

The Four Specific Attainments

The Four Specific Attainments

6. Then the Venerable Ananda approached the Blessed One and, after greeting him respectfully, sat down at one side. And he said to the Blessed One: "Here in Nadika, Lord, there have passed away the bhikkhu Salha and the bhikkhuni Nanda. Likewise there have passed away the layman Sudatta and the laywoman Sujata; likewise the layman Kakudha, Kalinga, Nikata, Katissabha, Tuttha, Santuttha, Bhadda, and Subhadda. What is their destiny, Lord? What is their future state?"

6. Rồi Tôn giả Ananda đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Salada mệnh chung tại Nadika đã được sanh ở cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào ? Tỷ-kheo ni Nandà mệnh chung tại Nadika đã được sanh ở cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế Tôn, cư sĩ Sudatta mệnh chung tại Nàdika đã được sanh cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế Tôn, nữ cư sĩ Sujàtà mệnh chung tại Nàdika đã được sanh ở cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế Tôn, cư sĩ Kakudha mệnh chung tại Nàdika đã được sanh cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế Tôn, cư sĩ Kàlinga... Bạch Thế Tôn, cư sĩ Nikata... Bạch Thế Tôn, cư sĩ Katissabha... Bạch Thế Tôn, cư sĩ Tuttha... Bạch Thế Tôn, cư sĩ Santuttha..., Bạch Thế Tôn cư sĩ Bhadda... Bạch Thế Tôn, cư sĩ Subhadda đã mệnh chung tại Nadika đã được sanh ở cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào?

7. "The bhikkhu Salha, Ananda, through the destruction of the taints in this very lifetime has attained to the taint-free deliverance of mind and deliverance through wisdom, having directly known and realized it by himself. 17

7.. Này Ananda, Tỷ-kheo Sàtha diệt tận các lậu hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.17

"The bhikkhuni Nanda, Ananda, through the destruction of the five lower fetters (that bind beings to the world of the senses), has arisen spontaneously (among the Suddhavasa deities) and will come to final cessation in that very place, not liable to return from that world.

Này Ananda, Tỷ-kheo ni Nandà đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, hóa sanh (thiên giới) và từ đó nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này nữa.

"The layman Sudatta, Ananda, through the destruction of the three fetters (self-belief, doubt, and faith in the efficacy of rituals and observances), and the lessening of lust, hatred, and delusion, has become a once-returner and is bound to make an end of suffering after having returned but once more to this world.

Này Ananda, cư sĩ Sudatta, diệt trừ ba kiết sử làm giảm thiểu tham, sân, si, chứng quả Nhứt lai sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau.

"The laywoman Sujata, Ananda, through the destruction of the three fetters has become a stream-enterer, and is safe from falling into the states of misery, assured, and bound for Enlightenment.

Này Ananda nữ cư sĩ Sujata diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, nhứt định không còn đọa vào ác đạo, đạt đến Chánh giác.

"The layman Kakudha, Ananda, through the destruction of the five lower fetters (that bind beings to the world of the senses), has arisen spontaneously (among the Suddhavasa deities), and will come to final cessation in that very place, not liable to return from that world.

Này Ananda cư sĩ Kakudha đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, hóa sanh (thiên giới), và từ đó nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này nữa.

"So it is with Kalinga, Nikata, Katissabha, Tuttha, Santuttha, Bhadda, and Subhadda, and with more than fifty laymen in Nadika. More than ninety laymen who have passed away in Nadika, Ananda, through the destruction of the three fetters, and the lessening of lust, hatred, and delusion, have become once-returners and are bound to make an end of suffering after having returned but once more to this world.

Này Ananda, cư sĩ Kalinga... Này Ananda cư sĩ Nikata... Này Ananda, cư sĩ Katissabha... Này Ananda, cư sĩ Tuttha... Này Ananda, cư sĩ Santuttha... Này Ananda, cư sĩ Bhadada... Này Ananda, cư sĩ Subhadda đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh (thiên giới), và từ đó nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này nữa. Này Ananda, hơn năm mươi cư sĩ mệnh chung tại Nàdita, đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, hóa sanh (thiên giới) và từ đó nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này nữa. Này Ananda, hơn chín mươi chín nam nữ cư sĩ mệnh chung tại Nàdika, diệt trừ ba kiết sử, làm giảm thiểu tham, sân si, chứng quả Nhứt lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau.

"More than five hundred laymen who have passed away in Nadika, Ananda, through the complete destruction of the three fetters have become stream-enterers, and are safe from falling into the states of misery, assured, and bound for Enlightenment.

Này Ananda, hơn năm trăm cư sĩ, mệnh chung tại Nadika, diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, nhứt định không còn đọa vào ác đạo, đạt đến Chánh giác.

The Mirror of the Dhamma

The Mirror of the Dhamma

8. "But truly, Ananda, it is nothing strange that human beings should die. But if each time it happens you should come to the Tathagata and ask about them in this manner, indeed it would be troublesome to him. Therefore, Ananda, I will give you the teaching called the Mirror of the Dhamma, possessing which the noble disciple, should he so desire, can declare of himself: 'There is no more rebirth for me in hell, nor as an animal or ghost, nor in any realm of woe. A stream-enterer am I, safe from falling into the states of misery, assured am I and bound for Enlightenment.'"

8.. Này Ananda, thật không có gì lạ, vấn đề con người phải mệnh chung. Nhưng mỗi lần có người mệnh chung lại đến hỏi Như Lai về vấn đề này thời Ananda, như vậy làm phiền nhiễu Như Lai. Này Ananda, vì vậy ta sẽ giảng Pháp kính (Gương chánh pháp) để Thánh đệ tử, sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn, sẽ tự tuyên bố về mình như sau: "Đối với ta, sẽ không còn địa ngục, sẽ không còn tái sanh cõi bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta đã chứng quả Dự lưu, nhứt định không đọa ác đạo, sẽ đạt Chánh giác".

9. "And what, Ananda, is that teaching called the Mirror of Dhamma, possessing which the noble disciple may thus declare of himself?

9.. Này Ananda, Pháp kính ấy là gì mà Thánh đệ tử, sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn, sẽ tự tuyên bố về mình như sau: "Đối với ta, sẽ không còn địa ngục, sẽ không còn tái sanh cõi bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta đã chứng quả Dự lưu, nhứt định không đọa ác đạo, sẽ đạt Chánh giác".

"In this case, Ananda, the noble disciple possesses unwavering faith in the Buddha thus: 'The Blessed One is an Arahant, the Fully Enlightened One, perfect in knowledge and conduct, the Happy One, the knower of the world, the paramount trainer of beings, the teacher of gods and men, the Enlightened One, the Blessed One.'

Này Ananda, vị Thánh đệ tử có chánh tín đối với đức Phật: "Thế Tôn là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn".

"He possesses unwavering faith in the Dhamma thus: 'Well propounded by the Blessed One is the Dhamma, evident, timeless, 18 inviting investigation, leading to emancipation, to be comprehended by the wise, each for himself.'

Vị ấy có chánh tín đối với chánh pháp: "Chánh pháp được Thế Tôn khéo giảng dạy, thiết thực, vượt ngoài thời gian chi phối, 18 đến để mà thấy, có khả năng giải thoát, được kẻ trí tự mình thâm hiểu".

"He possesses unwavering faith in the Blessed One's Order of Disciples thus: 'Well faring is the Blessed One's Order of Disciples, righteously, wisely, and dutifully: that is to say, the four pairs of men, the eight classes of persons. The Blessed One's Order of Disciples is worthy of honor, of hospitality, of offerings, of veneration — the supreme field for meritorious deeds in the world.'

Vị ấy có chánh tín đối với chúng Tăng: "Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn chân chánh tu hành, chúng Tăng đệ tử Thế Tôn chân trực tu hành, chúng Tăng đệ tử Thế Tôn chân trí tu hành, chúng Tăng đệ tử Thế Tôn chân tịnh tu hành, tức là bốn đôi tám vị. Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn đáng được nghênh đón, đáng được cúng dường, đáng được chiêm ngưỡng, đáng được chấp tay, là phước điền vô thượng ở trên đời."

"And he possesses virtues that are dear to the Noble Ones, complete and perfect, spotless and pure, which are liberating, praised by the wise, uninfluenced (by worldly concerns), and favorable to concentration of mind.

Cụ túc giới hạnh, được bậc Thánh mến chuộng, được viên mãn không mảy mún, được vẹn toàn không sứt mẻ, không tỳ vết, không ô nhiễm, những giới hạnh đưa đến giải thoát, được người trí tán thán, không bị ảnh hưởng bởi đời sau. Hướng dẫn đến thiền định".

10. "This, Ananda, is the teaching called the Mirror of the Dhamma, whereby the noble disciple may thus know of himself: 'There is no more rebirth for me in hell, nor as an animal or ghost, nor in any realm of woe. A stream-enterer am I, safe from falling into the states of misery, assured am I and bound for Enlightenment.'"

10.10. Này Ananda, chính Pháp kính này mà Thánh đệ tử sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn sẽ tự tuyên bố về mình như sau: "Đối với ta, sẽ không còn địa ngục, sẽ không còn tái sanh cõi bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta đã chứng quả Dự lưu, nhứt định không đọa ác đạo, sẽ đạt chánh giác".

11. And also in Nadika, in the Brick House, the Blessed One often gave counsel to the bhikkhus thus: "Such and such is virtue; such and such is concentration; and such and such is wisdom. Great becomes the fruit, great is the gain of concentration when it is fully developed by virtuous conduct; great becomes the fruit, great is the gain of wisdom when it is fully developed by concentration; utterly freed from the taints of lust, becoming, and ignorance is the mind that is fully developed in wisdom."

11. . Khi Thế Tôn ở Nàdika, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo: - Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ... Tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lâu.

12. When the Blessed One had stayed in Nadika as long as he pleased, he spoke to the Venerable Ananda, saying: "Come, Ananda, let us go to Vesali."

12.. Rồi Thế Tôn, sau khi ở Nàdika cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn giả Ananda: - Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Vesàli.

"So be it, O Lord." And the Blessed One took up his abode in Vesali together with a large community of bhikkhus, and stayed in Ambapali's grove.

- Xin vâng, bạch Thế Tôn ! Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Vasali. Ở đây, Thế Tôn trú tại vườn Ambapàli.

Mindfulness and Clear Comprehension

Mindfulness and Clear Comprehension

13. Then the Blessed One addressed the bhikkhus, saying: "Mindful should you dwell, bhikkhus, clearly comprehending; thus I exhort you.

13. Thế Tôn bảo các vị Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo, các Ngươi phải sống an trú chánh niệm, tỉnh giác. Đó là lời dạy của Ta cho các Ngươi.

14. "And how, bhikkhus, is a bhikkhu mindful? When he dwells contemplating the body in the body, earnestly, clearly comprehending, and mindfully, after having overcome desire and sorrow in regard to the world; and when he dwells contemplating feelings in feelings, the mind in the mind, and mental objects in mental objects, earnestly, clearly comprehending, and mindfully, after having overcome desire and sorrow in regard to the world, then is he said to be mindful.

14.. Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo an trú chánh niệm? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với thân, quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi ở trên đời, đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là chánh niệm.

15. "And how, bhikkhus, does a bhikkhu have clear comprehension? When he remains fully aware of his coming and going, his looking forward and his looking away, his bending and stretching, his wearing of his robe and carrying of his bowl, his eating and drinking, masticating and savoring, his defecating and urinating, his walking, standing, sitting, lying down, going to sleep or keeping awake, his speaking or being silent, then is he said to have clear comprehension.

15.. Này các Tỷ-kheo thế nào là Tỷ-kheo tỉnh giác? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ Kheo tỉnh giác khi đi tới, đi lui, tỉnh giác khi ngó tới, ngó lui; tỉnh giác khi co tay, duỗi tay, tỉnh giác khi mang áo sanghati (tăng già lê) mang bát, mang y, tỉnh giác khi ăn, khi uống, khi nhai, khi nếm, tỉnh giác khi đại tiện, tiểu tiện; tỉnh giác khi đi; khi đứng, khi ngồi, khi nằm, khi thức, khi nói, khi im lặng. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống tỉnh giác.

"Mindful should you dwell, bhikkhus, clearly comprehending; thus I exhort you."

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phải sống an trú chánh niệm tỉnh giác. Đó là lời dạy của Ta cho các Ngươi.

Ambapali and the Licchavis

Ambapali and the Licchavis

16. Then Ambapali the courtesan came to know: "The Blessed One, they say, has arrived at Vesali and is now staying in my Mango Grove." And she ordered a large number of magnificent carriages to be made ready, mounted one of them herself, and accompanied by the rest, drove out from Vesali towards her park. She went by carriage as far as the carriage could go, then alighted; and approaching the Blessed One on foot, she respectfully greeted him and sat down at one side. And the Blessed One instructed Ambapali the courtesan in the Dhamma and roused, edified, and gladdened her.

16. Lúc bấy giờ dâm nữ Ambapàli được nghe: "Thế Tôn đã đến Vesàli và ở tại vườn xoài của ta". Dâm nữ Ambapàli liền cho thắng các cỗ xe thù thắng, tự leo lên một chiếc, cùng với các cổ xe thù thắng xuất phát ra khỏi Vesàli và đi đến vườn xoài. Nàng cỡi xe cho đến chỗ còn có thể cỡi xe được, rồi xuống xe đi bộ đến tại chỗ Thế Tôn, khi đến liền đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên, Thế Tôn thuyết pháp cho dâm nữ Ambapàli đang ngồi một bên, giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ.

17. Thereafter Ambapali the courtesan spoke to the Blessed One, saying: "May the Blessed One, O Lord, please accept my invitation for tomorrow's meal, together with the community of bhikkhus." And by his silence the Blessed One consented.

17.. Dâm nữ Ambapàli sau khi được Thế Tôn giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, liền bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn ngày mai nhận lời mời dùng cơm của chúng con với chúng Tỷ-kheo. Thế Tôn im lặng nhận lời.

Sure, then, of the Blessed One's consent, Ambapali the courtesan rose from her seat, respectfully saluted him, and keeping her right side towards him, took her departure.

Dâm nữ Ambapali được biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân bên phải hướng về đức Phật và từ biệt.

18. Then the Licchavi of Vesali came to know: "The Blessed One, they say, has arrived at Vesali and is now staying in Ambapali's grove." And they ordered a large number of magnificent carriages to be made ready, each mounted one, and accompanied by the rest, drove out from Vesali. Now, of these Licchavis, some were in blue, with clothing and ornaments all of blue, while others were in yellow, red, and white.

18.. Các người Licchavi ở Vesàli được nghe: "Thế Tôn đến Vesàli hiện ở vườn Ambapàli", liền cho thắng các cỗ xe thù thắng leo lên xe rồi xuất phát ra khỏi Vesàli với những cỗ xe ấy. Có những vị Licchavi toàn xanh, màu sắc xanh, mặc vải màu xanh, mang đồ trang sức màu xanh. Có những vị Licchavi toàn vàng, màu sắc vàng, mặc vải màu vàng, mang đồ trang sức màu vàng. Có những vị Licchavi toàn đỏ, màu sắc đỏ, mặc vải màu đỏ, mang đồ trang sức màu đỏ. Có những vị Licchavi toàn trắng, màu sắc trắng, mặc vải màu trắng, mang đồ trang sức màu trắng.

19. And it so happened that Ambapali the courtesan drove up against the young Licchavis, axle by axle, wheel by wheel, and yoke by yoke. Thereupon the Licchavis exclaimed: "Why do you drive up against us in this fashion, Ambapali?"

19.. Lúc bấy giờ dâm nữ Ambapàli đánh xe va chạm với các thanh niên Licchavi, trục xe chạm với trục xe, bánh xe chạm với bánh xe, gọng xe chạm với gọng xe. Các Licchavi nói với dâm nữ Ambapàli: - Này Ambapàli, tại sao nàng lại đánh xe va chạm với các thanh niên Licchavi, trục xe chạm với trục xe, bánh xe chạm với bánh xe, gọng xe chạm với gọng xe?

"Thus it is, indeed, my princes, and not otherwise! For the Blessed One is invited by me for tomorrow's meal, together with the community of bhikkhus!"

- Này quý Công tử của tôi, tôi vừa mới mời Thế Tôn cùng chúng Tỷ-kheo ngày mai đến dùng cơm.

"Give up the meal, Ambapali, for a hundred thousand!"

- Này Ambapàli, hãy nhường cho chúng ta bữa cơm ấy đổi lấy một trăm ngàn.

But she replied: "Even if you were to give me Vesali, sirs, together with its tributary lands, I would not give up a meal of such importance."

- Dầu quý Công tử có cho tôi cả thành Vesàli cùng với các đất phụ thuộc, tôi cũng không nhường bữa cơm quan trọng này.

Then the Licchavis snapped their fingers in annoyance: "See, friends! We are defeated by this mango lass! We are utterly outdone by this mango lass!" But they continued on their way to Ambapali's grove.

Các vị Licchavi này tức tối búng ngón tay và nói: - Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài này đả thắng ! Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài này phổng tay trên. Và các vị Licchavi này cùng đi đến vườn Ambapàli.

20. And the Blessed One beheld the Licchavis from afar, as they drove up. Then he spoke to the bhikkhus, saying: "Those of you, bhikkhus, who have not yet seen the Thirty-three gods, may behold the assembly of the Licchavis, and may gaze on them, for they are comparable to the assembly of the Thirty-three gods."

20. Thế Tôn xa thấy các vị Licchavi liền nói với các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo nếu có vị Tỷ-kheo nào chưa thấy các chư Thiên ở cõi Tam thập tam thiên, hãy ngó chúng Licchavi, hãy nhìn chúng Licchavi. Này các Tỷ-kheo chúng Licchavi cũng giống như chúng Tam thập tam thiên".

21. Then the Licchavis drove their carriages as far as the carriages could go, then alighted; and approaching the Blessed One on foot, they respectfully greeted him and sat down at one side. The Blessed One instructed the Licchavis in the Dhamma, and roused, edified, and gladdened them.

21.. Các vị Licchavi ấy cỡi xe cho đến chỗ còn có thể cỡi xe được, rồi xuống xe đi bộ đến tại chỗ Thế Tôn, khi đến, liền đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Thế Tôn thuyết pháp cho những vị Licchavi đang ngồi một bên, giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ.

22. Thereafter the Licchavis spoke to the Blessed One, saying: "May the Blessed One, O Lord, please accept our invitation for tomorrow's meal, together with the community of bhikkhus."

22.. Các vị Licchavi sau khi được Thế Tôn giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ liền bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn ngày mai nhận lời mời dùng cơm của chúng con với chúng Tỷ-kheo.

"The invitation for tomorrow's meal, Licchavis, has been accepted by me from Ambapali the courtesan."

- Này các Licchavi, ngày mai Ta đã nhận lời mời dùng cơm của dâm nữ Ambapàli rồi.

Then the Licchavis snapped their fingers in annoyance: "See, friends! We are defeated by this mango lass! We are utterly outdone by this mango lass!" And then the Licchavis, approving of the Blessed One's words and delighted with them, rose from their seats, respectfully saluted him, and keeping their right sides towards him, took their departure.

>Các vị Licchavi này tức tối búng ngón tay và nói: "Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài này đả thắng ! Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài này phổng tay trên... " Rồi những vị Licchavi này, hoan hỷ tán thán lời dạy Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân bên hữu hướng về đức Phật và từ biệt.

23. Then, after the night had passed, Ambapali the courtesan had choice food, hard and soft, prepared in her park, and announced it to the Blessed One: "It is time, O Lord; the meal is ready." Thereupon the Blessed One got ready in the forenoon, and taking bowl and robe, he went together with the community of bhikkhus to Ambapali's dwelling, and there he took the seat prepared for him. And Ambapali herself attended on the community of bhikkhus headed by the Buddha, and served them with choice food, hard and soft.

23.. Lúc bấy giờ dâm nữ Ambapali, đêm vừa tàn canh, liền cho sửa soạn tại vườn của mình các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm và cho báo tin Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, giờ đã đến, cơm đã sẵn sàng". Thế Tôn buổi sáng đắp y, đem theo y bát, cùng với chúng Tỷ-kheo đến tại túc xá của dâm nữ Ambapàli, sau khi đến liền ngồi xuống chỗ đã soạn sẵn. Rồi dâm nữ Ambapàli tự tay thân hành mời chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vi thượng thủ, dùng các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm.

24. And when the Blessed One had finished his meal and had removed his hand from his bowl, Ambapali the courtesan took a low seat, and placing herself at one side, spoke to the Blessed One, saying: "This park, O Lord, I offer to the community of bhikkhus headed by the Buddha." And the Blessed One accepted the park. He then instructed Ambapali in the Dhamma, and having roused, edified, and gladdened her, he rose from his seat and departed.

24.. Khi Thế Tôn dùng xong, tay đã rời bát, dâm nữ Ambapàli lấy một ghế thấp khác và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, dâm nữ Ambapàli bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, con xin cúng dường ngôi vườn này cho chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị thượng thủ". Thế Tôn nhận lãnh khu vườn. Thế Tôn thuyết pháp cho dâm nữ Ambapàli, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, rồi đứng dậy ra về.

25. And also at Vesali, in Ambapali's grove, the Blessed One often gave counsel to the bhikkhus thus: "Such and such is virtue; such and such is concentration; and such and such is wisdom. Great becomes the fruit, great is the gain of concentration when it is fully developed by virtuous conduct; great becomes the fruit, great is the gain of wisdom when it is fully developed by concentration; utterly freed from the taints of lust, becoming, and ignorance is the mind that is fully developed in wisdom."

25.. Trong thời gian Thế Tôn ở Vesàli, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo: - Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.

26. When the Blessed One had stayed in Ambapali's grove as long as he pleased, he spoke to the Venerable Ananda, saying: "Come, Ananda, let us go to the village of Beluva."

26.. Rồi Thế Tôn, sau khi ở Vesàli cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn giả Ananda: - Này Ananda, chúng ta hãy đi đến làng Baluvà.

"So be it, Lord." And the Blessed One took up his abode in the village of Beluva together with a large community of bhikkhus.

- Xin vâng, bạch Thế Tôn! Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến làng Baluvà. Và Thế Tôn trú tại làng này.

The Blessed One's Deadly Sickness

The Blessed One's Deadly Sickness

27. At that time the Blessed One spoke to the bhikkhus, saying: "Go now, bhikkhus, and seek shelter anywhere in the neighborhood of Vesali where you are welcome, among acquaintances and friends, and there spend the rainy season. As for me, I shall spend the rainy season in this very place, in the village of Beluva."

27.. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo: - Này các Tỷ Kheo hãy an cư trong mùa mưa xung quanh Vesàli tại chỗ có bạn bè quen thuộc và thân tín. Còn Ta sẽ an cư ở đây, tại làng Baluvà.

"So be it, O Lord," the bhikkhus said.

- Xin vâng, bạch Thế Tôn ! Những Tỷ Kheo này vâng đáp Thế Tôn và tìm chỗ an cư mùa mưa xung quanh Vesàli tại chỗ có bạn bè quyến thuộc và thân tín. Còn Thế Tôn an cư tại làng Baluvà.

28. But when the Blessed One had entered upon the rainy season, there arose in him a severe illness, and sharp and deadly pains came upon him. And the Blessed One endured them mindfully, clearly comprehending and unperturbed.

28.. Trong khi Thế Tôn an cư trong mùa mưa, một cơn bệnh trầm trọng khởi lên, rất đau đớn, gần như muốn chết. Nhưng Thế Tôn giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, chịu đựng cơn đau ấy, không một chút ta thán.

29. Then it occurred to the Blessed One: "It would not be fitting if I came to my final passing away without addressing those who attended on me, without taking leave of the community of bhikkhus. Then let me suppress this illness by strength of will, resolve to maintain the life process, and live on."

29. Thế Tôn tự nghĩ: "Thật không hợp lẽ nếu Ta diệt độ mà không có một lời với các đệ tử hầu cận Ta, không từ biệt chúng Tỷ-kheo. Vậy Ta hãy lấy sức tinh tấn, nhiếp phục cơn bệnh này, duy trì mạng căn và tiếp tục sống".

30. And the Blessed One suppressed the illness by strength of will, resolved to maintain the life process, and lived on. So it came about that the Blessed One's illness was allayed.

30. Và Thế Tôn với sức tinh tấn, nhiếp phục bệnh ấy duy trì mạng căn. Rồi Thế Tôn lành bệnh.

31. And the Blessed One recovered from that illness; and soon after his recovery he came out from his dwelling place and sat down in the shade of the building, on a seat prepared for him. Then the Venerable Ananda approached the Blessed One, respectfully greeted him, and sitting down at one side, he spoke to the Blessed One, saying: "Fortunate it is for me, O Lord, to see the Blessed One at ease again! Fortunate it is for me, O Lord, to see the Blessed One recovered! For truly, Lord, when I saw the Blessed One's sickness it was as though my own body became weak as a creeper, every thing around became dim to me, and my senses failed me. Yet, Lord, I still had some little comfort in the thought that the Blessed One would not come to his final passing away until he had given some last instructions respecting the community of bhikkhus."

31. . Sau khi lành bệnh không bao lâu, đức Phật rời khỏi tịnh xá và ngồi trên ghế đã soạn sẵn, trong bóng mát của ngôi tịnh xá. Lúc bấy giờ tôn giả Ananda đến tại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, con được thấy Thế Tôn khỏe mạnh. Bạch Thế Tôn, con được thấy Thế Tôn kham nhẫn, bạch Thế Tôn, thấy Thế Tôn bệnh hoạn, thân con cảm thấy yếu ớt như lau sậy, mắt con mờ mịt không thấy rõ phương hướng, dầu cho, bạch Thế Tôn, con được một chút an ủi rằng, Thế Tôn sẽ không diệt độ, nếu Ngài chưa có lời di giáo lại cho chúng Tỷ-kheo.

32. Thus spoke the Venerable Ananda, but the Blessed One answered him, saying: "What more does the community of bhikkhus expect from me, Ananda? I have set forth the Dhamma without making any distinction of esoteric and exoteric doctrine; there is nothing, Ananda, with regard to the teachings that the Tathagata holds to the last with the closed fist of a teacher who keeps some things back. Whosoever may think that it is he who should lead the community of bhikkhus, or that the community depends upon him, it is such a one that would have to give last instructions respecting them. But, Ananda, the Tathagata has no such idea as that it is he who should lead the community of bhikkhus, or that the community depends upon him. So what instructions should he have to give respecting the community of bhikkhus?

32 Này Ananda, chúng Tỷ-kheo còn mong mỏi gì nữa ở Ta! Này Ananda, Ta đã giảng Chánh pháp, không có phân biệt trong ngoài (mật giáo và không phải mật giáo), vì này Ananda, đối với các Pháp, Như Lai không bao giờ là vị Đạo sư còn nắm tay (còn giữ lại một ít mật giáo chưa giảng dạy). Này Ananda, những ai nghĩ rằng: "Như Lai là vị cầm đầu chúng Tỷ-kheo"; hay "chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Như Lai" thời này Ananda, người ấy sẽ có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo. Này Ananda, Như Lai không nghĩ rằng: "Ta là vị cầm đầu chúng Tỷ-kheo; hay "chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Ta" thời nay Ananda, làm sao Như Lai lại có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo?

33. "Therefore, Ananda, be islands unto yourselves, refuges unto yourselves, seeking no external refuge; with the Dhamma as your island, the Dhamma as your refuge, seeking no other refuge.

33.. Vậy nên, này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác. >

"And how, Ananda, is a bhikkhu an island unto himself, a refuge unto himself, seeking no external refuge; with the Dhamma as his island, the Dhamma as his refuge, seeking no other refuge?

Này Ananda, thế nào là vị Tỷ-kheo hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác?

34. "When he dwells contemplating the body in the body, earnestly, clearly comprehending, and mindfully, after having overcome desire and sorrow in regard to the world; when he dwells contemplating feelings in feelings, the mind in the mind, and mental objects in mental objects, earnestly, clearly comprehending, and mindfully, after having overcome desire and sorrow in regard to the world, then, truly, he is an island unto himself, a refuge unto himself, seeking no external refuge; having the Dhamma as his island, the Dhamma as his refuge, seeking no other refuge.

34.. Này Ananda, ở đời, vị Tỷ-kheo, đối với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời; đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời. Này Ananda, như vậy vị Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.

35. "Those bhikkhus of mine, Ananda, who now or after I am gone, abide as an island unto themselves, as a refuge unto themselves, seeking no other refuge; having the Dhamma as their island and refuge, seeking no other refuge: it is they who will become the highest, 20 if they have the desire to learn."

35. Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, Này Ananda là những vị tối thượng20 trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.

Part Three: Relinquishing the Will to Live

Part Three: Relinquishing the Will to Live

The Blessed One's Prompting

The Blessed One's Prompting

1. Then the Blessed One, getting ready in the forenoon, took bowl and robe and went into Vesali for alms. After the alms round and meal, on his return, he spoke to the Venerable Ananda, saying: "Take up a mat, Ananda, and let us spend the day at the Capala shrine."

1. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, đem theo y bát, vào Vesàli để khất thực. Sau khi khất thực ở Vesàli, ăn xong và trên đường khất thực trở về Ngài nói với tôn giả Ananda: - Này Ananda, hãy lấy tọa cụ. Ta muốn đi đến điện thờ Càpàla, để nghỉ trưa.

"So be it, Lord." And the Venerable Ananda took up a mat and followed behind the Blessed One, step by step.

- Xin vâng, bạch Thế Tôn! Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, lấy tọa cụ và đi theo sau lưng Thế Tôn.

2. And the Blessed One went to the Capala shrine and sat down on the seat prepared for him. And when the Venerable Ananda had seated himself at one side after he had respectfully saluted the Blessed One, the Lord said to him: "Pleasant, Ananda, is Vesali; pleasant are the shrines of Udena, Gotamaka, Sattambaka, Bahuputta, Sarandada, and Capala."

2. Thế Tôn đi đến điện thờ Càpàla, khi đến Ngài ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Tôn giả Ananda đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda đang ngồi một bên: - Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả ái thay điện thờ Udena, khả ái thay điện thờ Gotamaka, khả ái thay điện thờ Sàttambaka, khả ái thay điện thờ Bahuputta, khả ái thay điện thờ Sàrandada, khả ái thay điện thờ Càpàla. >

3. And the Blessed One said: "Whosoever, Ananda, has developed, practiced, employed, strengthened, maintained, scrutinized, and brought to perfection the four constituents of psychic power could, if he so desired, remain throughout a world-period or until the end of it. 21 The Tathagata, Ananda, has done so. Therefore the Tathagata could, if he so desired, remain throughout a world-period or until the end of it."

3.. Này Ananda, những ai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo, thời nếu muốn người ấy có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. 21 Này Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại.

4. But the Venerable Ananda was unable to grasp the plain suggestion, the significant prompting, given by the Blessed One. As though his mind was influenced by Mara, 22 he did not beseech the Blessed One: "May the Blessed One remain, O Lord!. May the Happy One remain, O Lord, throughout the world-period, for the welfare and happiness of the multitude, out of compassion for the world, for the benefit, well being, and happiness of gods and men!"

4.. Nhưng Tôn giả Ananda không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn; tôn giả không thỉnh cầu Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp. Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người". Vì tâm tôn giả bị Ma vương 22 ám ảnh.

5. And when for a second and a third time the Blessed One repeated his words, the Venerable Ananda remained silent.

>

5.. Lần thứ hai Thế Tôn... lần thứ ba Thế Tôn nói với tôn giả Ananda: - Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả ái thay điện thờ Udena, khả ái thay điện thờ Gotamaka, khả ái thay điện thờ Sattambaka, khả ái thay điện thờ Bahuputta, khả ái thay điện thờ Sàrandada, khả ái thay điện thờ Capala !" Này Ananda, những ai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu người ấy muốn, có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn, Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Nhưng tôn giả Ananda không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn, Tôn giả không thỉnh cầu Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người". Vì tâm của tôn giả bị Ác ma ám ảnh.

6. Then the Blessed One said to the Venerable Ananda: "Go now, Ananda, and do as seems fit to you."

6.. Rồi Thế Tôn nói với tôn giả Ananda: - Này Ananda hãy đi và làm những gì Ngươi nghĩ là phải thời.

"Even so, O Lord." And the Venerable Ananda, rising from his seat, respectfully saluted the Blessed One, and keeping his right side towards him, took his seat under a tree some distance away.

- Xin vâng, bạch Thế Tôn! Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân bên hữu hướng về Thế Tôn và đi ra.

Mara's Appeal

Mara's Appeal

7. And when the Venerable Ananda had gone away, Mara, the Evil One, approached the Blessed One. And standing at one side he spoke to the Blessed One, saying: "Now, O Lord, let the Blessed One come to his final passing away; let the Happy One utterly pass away! The time has come for the Parinibbana of the Lord.

7. Tôn giả Ananda đi ra chưa bao lâu, Ác ma liền đến chỗ Thế Tôn, khi đến xong liền đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Ác ma nói với Thế Tôn. - Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.

"For the Blessed One, O Lord, spoke these words to me: 'I shall not come to my final passing away, Evil One, until my bhikkhus and bhikkhunis, laymen and laywomen, have come to be true disciples — wise, well disciplined, apt and learned, preservers of the Dhamma, living according to the Dhamma, abiding by the appropriate conduct, and having learned the Master's word, are able to expound it, preach it, proclaim it, establish it, reveal it, explain it in detail, and make it clear; until, when adverse opinions arise, they shall be able to refute them thoroughly and well, and to preach this convincing and liberating Dhamma.' 23

Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo của Ta chưa trở thành những vị đệ tử chân chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tích, và giải thích rõ ràng Chánh pháp, khi có tà đạo khởi lên chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu".23

8. "And now, O Lord, bhikkhus and bhikkhunis, laymen and laywomen, have become the Blessed One's disciples in just this way. So, O Lord, let the Blessed One come to his final passing away! The time has come for the Parinibbana of the Lord.

8.. Bạch Thế Tôn, nay những Tỷ-kheo của Thế Tôn, đã trở thành những vị đệ tử chân chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp và tùy pháp, sống chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp, khi có tà đạo khởi lên đã có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, đã có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn, hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ ! Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo ni của Ta chưa trở thành những vị đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật... khi nào những nam cư sĩ của Ta chưa trở thành những vị đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách, và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu". Bạch Thế Tôn, nay những nam cư sĩ của Thế Tôn đã trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, đầy đủ Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tích và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, đã có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, và có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những nữ cư sĩ của Ta chưa trở thành những vị đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì, Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách, và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá chánh pháp một cách thần diệu". Bạch Thế Tôn, nay những nữ cư sĩ của Thế Tôn đã trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách, và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, đã có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, có thể truyền bá Chánh pháp một cách thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.

"For the Blessed One, O Lord, spoke these words to me: 'I shall not come to my final passing away, Evil One, until this holy life taught by me has become successful, prosperous, far-renowned, popular, and widespread, until it is well proclaimed among gods and men.' And this too has come to pass in just this way. So, O Lord, let the Blessed One come to his final passing away, let the Happy One utterly pass away! The time has come for the Parinibbana of the Lord."

Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào phạm hạnh Ta giảng dạy chưa thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài người". Bạch Thế Tôn, nay phạm hạnh Thế Tôn giảng dạy đã được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài người. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.

The Blessed One Relinquishes His Will to Live

The Blessed One Relinquishes His Will to Live

9. When this was said, the Blessed One spoke to Mara, the Evil One, saying: "Do not trouble yourself, Evil One. Before long the Parinibbana of the Tathagata will come about. Three months hence the Tathagata will utterly pass away."

9.. Khi được nói vậy Thế Tôn nói với Ác ma: "Này Ác ma hãy yên tâm, không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ".

10. And at the Capala shrine the Blessed One thus mindfully and clearly comprehending renounced his will to live on. And upon the Lord's renouncing his will to live on, there came a tremendous earthquake, dreadful and astonishing, and thunder rolled across the heavens. And the Blessed One beheld it with understanding, and made this solemn utterance:

10. Và tại điện thờ Capala, Thế Tôn chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành (không duy trì mạng sống lâu hơn nữa). Khi Thế Tôn từ bỏ, không duy trì mạng sống thêm nữa, thời đại địa chấn động, ghê rợn, tóc lông dựng ngược, sấm trời vang dậy. Thế Tôn nhận hiểu ý nghĩa của sự kiện ấy, liền thốt câu kệ cảm khái như sau:

What causes life, unbounded or confined 24  — 
His process of becoming 25  —  this the Sage
Renounces. With inward calm and joy he breaks,
As though a coat of mail, his own life's cause. 26

Mạng sống có hạn hay vô hạn, 
Tu sĩ từ bỏ, không kéo dài. 
Nội tâm chuyên nhất trú thiền định. 
Như tháo áo giáp đang mang mặc. 

11. Then it came to the mind of the Venerable Ananda: "Marvellous it is indeed, and most wonderful! The earth shakes mightily, tremendously! Dreadful and astonishing it is, how the thunders roll across the heavens! What could be the reason, what the cause, that so mighty an earthquake should arise?"

11.. Lúc bấy giờ, tôn giả Ananda suy nghĩ: "Thật là kỳ diệu ! Thật là hy hữu ! Đại địa chấn động, đại địa rung động như vậy, ghê rợn, tóc lông dựng ngược và sấm trời vang dậy. Do nhân gì, do duyên gì, đại địa chấn động như vậy?".

Eight Causes of Earthquakes

Eight Causes of Earthquakes

12. And the Venerable Ananda approached the Blessed One, and respectfully greeting him, sat down at one side. Then he spoke to the Blessed One, saying: "Marvellous it is indeed, and most wonderful! The earth shakes mightily, tremendously! Dreadful and astonishing it is how the thunders roll across the heavens! What could be the reason, what the cause, that so mighty an earthquake should arise?"

12.. Rồi tôn giả Ananda đến tại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Khi ngồi xuống một bên, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu ! Bạch Thế Tôn thật là hy hữu ! Đại địa chấn động, đại địa rung động như vậy, ghê rợn, tóc lông dựng ngược và sấm trời vang dậy. Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, đại địa chấn động như vậy ?

13. Then the Blessed One said: "There are eight reasons, Ananda, eight causes for a mighty earthquake to arise. What are those eight?

13. - Này Ananda, có tám nhân, có tám duyên khiến đại địa chấn động. Thế nào là tám?

14. "This great earth, Ananda, is established upon liquid, the liquid upon the atmosphere, and the atmosphere upon space. And when, Ananda, mighty atmospheric disturbances take place, the liquid is agitated. And with the agitation of the liquid, tremors of the earth arise. This is the first reason, the first cause for the arising of mighty earthquakes.

14.. Này Ananda, đại địa này thiết lập trên nước, nước ở trên gió và gió ở tại hư không. Này Ananda, đến thời đại phong khởi lên, gió lớn khi thổi làm nổi sóng nước, và khi nước nổi sóng thì quả đất rung động. Đó là nhân thứ nhất, duyên thứ nhất, đại địa chấn động.

15. "Again, Ananda, when an ascetic or holy man of great power, one who has gained mastery of his mind, or a deity who is mighty and potent, develops intense concentration on the delimited aspect of the earth element, and to a boundless degree on the liquid element, he, too, causes the earth to tremble, quiver, and shake. This is the second reason, the second cause for the arising of mighty earthquakes.

15.. Lại nữa này Ananda, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn có thần thông, tâm được chế ngự, hay hàng chư Thiên có đại thần thông, có đại uy lực; những vị này quán địa tánh có hạn, quán thủy tánh vô lượng, vị ấy có thể khiến quả đất này rung động, chuyển động mạnh. Đó là nhân thứ hai, duyên thứ hai khiến đại địa chấn động.

16-21. "Again, Ananda, when the Bodhisatta departs from the Tusita realm and descends into his mother's womb, mindfully and clearly comprehending; and when the Bodhisatta comes out from his mother's womb, mindfully and clearly comprehending; and when the Tathagata becomes fully enlightened in unsurpassed, supreme Enlightenment; when the Tathagata sets rolling the excellent Wheel of the Dhamma; when the Tathagata renounces his will to live on; and when the Tathagata comes to pass away into the state of Nibbana in which no element of clinging remains — then, too, Ananda, this great earth trembles, quivers, and shakes.

16-21.. Lại nữa, này Ananda, khi vị Bồ-tát ở cõi Tusita (Đâu suất) từ bỏ thân, chánh niệm, tỉnh giác, nhập vào mẫu thai, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân thứ ba, duyên thứ ba khiến đại địa chấn động. 17. Lại nữa, này Ananda, khi vị Bồ-tát, chánh niệm, tỉnh giác, ra khỏi mẫu thai, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân thứ tư, duyên thứ tư khiến đại địa chấn động. 18. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, khi ấy quả đất rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân thứ năm, duyên thứ năm khiến đại địa chấn động. 19. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai chuyển bánh xe Pháp, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân thứ sáu, duyên thứ sáu, khiến đại địa chấn động. 20. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai, chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ, không duy trì mạng sống, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân thứ bảy, duyên thứ bảy, khiến đại địa chấn động. 21. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai nhập vô dư y Niết Bàn, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân thứ tám duyên thứ tám, khiến đại địa chấn động.

"These, Ananda, are the eight reasons, the eight causes for a great earthquake to arise. 27

Này Ananda, do tám nhân này, tám duyên này, khiến đại địa chấn động.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại phamdang0308@gmail.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang trước|Trang kế | trở về đầu trang | Home page |