Các lễ tết cổ truyền Việt Nam
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một
dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán
(c̣n gọi là Tết cả). Thực tế, Việt Nam có
hàng chục lễ tết cổ truyền rất ư nghĩa
ở nhiều thời điểm khác nhau trong năm. Và
trong từng cái Tết ấy đều chứa đựng
một sự tích sâu xa, thể hiện sự giao thoa với
nền văn hóa khu vực, song đă được Việt
hóa một cách tự nhiên và sâu sắc.
Tết Nguyên đán
Là tết lớn nhất
trong năm, Tết Nguyên đán (Tết cả) vào đúng ngày
Mùng một tháng Giêng - ngày đầu tiên của năm mới.
Theo phong tục cổ
truyền Việt Nam, Tết Nguyên đán trước hết
là tết của gia đ́nh. Trong ba ngày tết, diễn ra ba
cuộc gặp gỡ lớn ngay tại mỗi nhà:
Thứ nhất là cuộc "gặp gỡ" của
những gia thần: Tiên sư hay Nghệ sư - vị tổ
đầu tiên dạy nghề gia đ́nh ḿnh đang làm, Thổ
công - thần giữ đất nơi ḿnh ở và Táo quân -
thần coi việc nấu ăn của mọi người
trong nhà (Táo quân lên chầu trời ngày 23 tháng Chạp
nhưng đến ngày 30 cũng về để "họp
mặt" và chuẩn bị cho năm mới).
Thứ hai là cuộc "gặp gỡ" tổ
tiên, ông bà... những người đă khuất. Nhân dân quan
niệm linh hồn người đă khuất cũng về
với con cháu vào dịp Tết.
Thứ ba là cuộc đoàn tụ của những
người trong nhà. Như một thói quen linh thiêng và bền
vững nhất, mỗi năm Tết đến, dù
đang ở đâu, làm ǵ, trong hoàn cảnh nàọ.., hầu
như ai cũng mong muốn và cố gắng trở về
quây quần với gia đ́nh.
Dịp Tết Nguyên
đán người ta làm bánh chưng, trồng cây nêu, đi
chúc mừng nhau, mở hội, tổ chức các cuộc
vui chơi thi đấu, ăn uống... rất tưng bừng.
Trên các bàn thờ, ngoài lễ vật, mâm ngũ quả, bánh
chưng... c̣n thường có một cành đào (ở miền
bắc) hoặc mai (ở miền nam). Tết Nguyên đán
thực sự là ngày hội ngộ lớn, ngày nhớ
ơn, tạ ơn, chúc mừng, sum họp vui vẻ và
thiêng liêng.
Tết Khai hạ
Theo tính cách của
người xưa, ngày mồng Một tháng Giêng ứng vào
gà, mồng Hai - chó, mồng Ba - lợn, mồng Bốn - dê,
mồng Năm - trâu, mồng Sáu - ngựa, mồng Bảy -
người, mồng Tám - lúa. Trong tám ngày đầu năm,
cứ ngày nào sáng sủa th́ coi như giống thuộc về
ngày ấy được tốt cả năm! V́ vậy,
đến mồng Bảy, thấy trời tạnh ráo,
quang đăng th́ người ta tin cả năm mọi
người sẽ gặp may mắn, hạnh phúc. Mồng
Bảy hạ cây nêu, kết thúc Tết Nguyên đán cũng
là lúc bắt đầu Tết Khai hạ - Tết mở
đầu ngày vui để đón chào mùa xuân mới.
Tết Thượng
nguyên
Tết Thượng
nguyên (Tết Nguyên tiêu) vào đúng Rằm tháng Giêng - ngày
trăng tṛn đầu tiên của năm. Tết này phần
lớn tổ chức tại chùa chiền v́ Rằm tháng
Giêng c̣n là ngày vía của Phật Tổ. Thành ngữ: "Lễ
Phật quanh năm không bằng Rằm tháng Giêng" xuất
phát từ đó. Sau khi đi chùa, mọi người về
nhà họp mặt, cúng gia tiên và ăn cỗ.
Tết Hàn thực
"Hàn thực"
nghĩa là ăn đồ nguội. Tết này vào ngày mồng
Ba tháng Ba (âm lịch).
Thời Xuân Thu ở Trung Quốc, công tử Trùng Nhĩ (về
sau là vua Tấn Văn Công) khi gặp cảnh hoạn nạn,
đói quá, được Giới Tử Thôi cắt thịt
đùi ḿnh nấu dâng cho ăn ! Sau mười chín năm
phiêu bạt, Trùng Nhĩ lại được trở về
nắm giữ Vương quyền nước Tần. Vua
ban thưởng cho tất cả những người
đă cùng nếm mật nằm gai, nhưng lại quên mất
Tử Thôi (!). Tử Thôi cũng không oán giận ǵ (v́ nghĩ
việc giúp đỡ Trùng Nhĩ là một nghĩa vụ của
kẻ bề tôi) và đưa mẹ vào sống ở núi
Điền. Lúc vua nhớ ra, cho người tới mời
mà không được, liền sai đốt rừng để
Tử Thôi phải ra. Nhưng Tử Thôi không chịu và hai mẹ
con cùng chết cháy ! Hôm ấy đúng ngày mồng năm
tháng Ba. Đau xót, vua sai lập miếu thờ trên núi và
đổi tên núi đó là Giới Sơn. Người quanh
vùng thương Tử Thôi nên hằng năm, từ ngày mồng
Ba đến ngày mồng Năm tháng Ba (ba ngày) th́ kiêng đốt
lửa mà chỉ ăn đồ nguội đă nấu sẵn.
Từ thời Lư
(1010 đến 1225) nhân dân Việt nam đă tiếp nhận
tết này nhưng chỉ tổ chức vào một ngày mồng
Ba tháng Ba (âm lịch), không kiêng đốt lửa và thường
làm bánh trôi, bánh chay thay cho đồ nguội. Mục
đích chủ yếu là để cúng gia tiên chứ ít ai rơ
chuyện Giới Tử Thôi! Hiện nay, Tết này vẫn
thường đậm nét ở miền bắc - nhất
là các tỉnh quanh Hà Nội.
Tết Thanh minh
Thanh minh trong tiết
tháng Ba
Lễ là tảo mộ
hội là đạp thanh
(Truyện Kiều)
"Thanh minh" nghĩa
là (trời) trong sáng. Nhân đó người ta đi thăm
mồ mả của những người thân. Tết Thanh
minh - thường vào tháng Ba âm lịch - trở thành lễ
tảo mộ. Đi thăm mộ, nếu thấy cỏ rậm
phát quang, đất khuyết lở th́ đắp lại
cho đầỵ.., rồi về nhà làm lễ cúng gia tiên.
Tết Đoan ngọ
Tết Đoan ngọ
(Tết Đoan dương) vào mồng Năm tháng Năm
(âm lịch). Đây là giai đoạn chuyển mùa (từ
Xuân sang Hạ) nên khí hậu có nhiều thay đổi đột
ngột, dễ sinh bệnh thời khí. Ca dao có câu:
Chưa ăn bánh nếp
Đoan dương
Áo bông chẳng dám
khinh thường cởi ra
Khuất Nguyên - nhà
thơ nổi tiếng, một vị trung thần nước
Sở - do can ngăn vua Hoài Vương không được,
đă uất ức ôm đá gieo ḿnh xuống sông Mịch La
tự vẫn. Hôm ấy đúng ngày mồng Năm tháng
Năm. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi
năm cứ đến ngày đó, dân Trung Quốc xưa
làm bánh, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài (chủ ư khiến
cá sợ, khỏi đớp mất) rồi bơi thuyền
ra giữa sông ném bánh xuống cúng Khuất Nguyên.
Ở Việt Nam, ít người biết chuyện Khuất
Nguyên mà chỉ coi mồng Năm tháng Năm là "Tết
giết sâu bọ" - v́ trong giai đoạn chuyển mùa,
chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Mọi
người dậy sớm, chỉ ăn hoa quả hoặc
chè. Tuy nhiên mỗi nơi có thêm phong tục riêng, ví như ở
Phủ Lư (tỉnh Hà Nam) vào ngày này con rể thường tới
biếu bố vợ một con ngỗng to.
Tết Trung Nguyên
Tết Trung Nguyên vào
Rằm tháng Bảy. Người xưa tin theo sách Phật,
coi hôm ấy là ngày vong nhân được xá tội, ngày báo
hiếu cha mẹ... nên tại chùa thường làm chay chẩn
tế và cầu kinh Vu lan. C̣n lại các nhà th́ bày cúng gia tiên,
đốt vàng mă...
Tết Trung thu
Tết Trung thu vào Rằm
tháng Tám. Trung thu là Tết của trẻ con nhưng người
lớn cũng nhân đây họp mặt, uống rượu,
uống trà, ngắm trăng... Thường ban ngày người
ta làm lễ cũng gia tiên, tối mới bày hoa quả, bánh
kẹo, chè cháo để trẻ con vui chơi, phá cỗ,
trông trăng rước đèn... Nhiều nơi c̣n tổ
chức hát trống quân (trai gái hát đối đáp trong tiếng
trống đệm nhịp).
Tết Trùng cửu
Mồng Chín tháng Chín
(âm lịch) là Tết Trùng cửu. Tết này bắt nguồn
từ sự tích của đạo Lăo. Thời Hán, có
người tên gọi Hoàn Cảnh, đi học phép tiên. Một
hôm thầy Phí Tràng Pḥng bảo Hoàn Cảnh khuyên mỗi
người trong nhà nên may một túi lụa đựng hoa
cúc, rồi lên cao mà tạm trú ngụ. Quả nhiên, ngày Chín
tháng Chín có lụt to, ngập hết làng mạc. Nhớ làm
theo lời thầy, Hoàn Cảnh và gia đ́nh thoát nạn.
Từ xưa, nho sĩ
Việt Nam đă theo lễ này, nhưng lại biến thành
cuộc du ngoạn núi non, uống rượu cúc - gọi
là thưởng Tết Trùng dương.
Tết Trùng thập
Đây là Tết của
các thầy thuốc. Theo sách Dược lễ th́ đến
ngày Mười tháng Mười (âm lịch) cây thuốc mới
tụ được khí âm dương, mới kết
được sắc tứ thời (Xuân - Hạ - Thu -
Đông), trở nên tốt nhất. Ở nông thôn Việt
Nam, đến ngày đó người ta thường làm bánh
dày, nấu chè kho để cúng gia tiên rồi đem biếu
những người thân thuộc (chứ không mấy quan
tâm đến chuyện cây thuốc, thầy thuốc).
Tết Hạ
nguyên
Tết Hạ nguyên
(Tết Cơm mới) vào Rằm hay mồng Một tháng
Mười, ở nông thôn, Tết này được tổ
chức rất lớn v́ đây là dịp nấu cơm gạo
mới của vụ vừa xong - trước để
cúng tổ tiên, sau để tự thưởng công cày cấy.
Tết Táo quân
Tết Táo quân vào ngày
23 tháng Chạp - người ta coi đây là ngày "vua bếp"
lên chầu Trời để tâu lại việc bếp núc,
làm ăn, cư xử của gia đ́nh trong năm qua.
Theo truyền thuyết
Việt Nam, xưa có hai vợ chồng nghèo khổ quá, phải
bỏ nhau, mỗi người một nơi tha
phương cầu thực. Sau đó, người vợ
may mắn lấy được chồng giàu. Một
năm, vào ngày 23 tháng Chạp, đang đốt vàng mă ngoài
sân th́ thấy một người ăn xin bước vào,
nhận ra chính là chồng cũ nên người vợ động
ḷng, đem cơm gạo, tiền bạc ra cho. Người
chồng mới biết chuyện, nghi ngờ vợ.
Người vợ đâm khó xử, uất ức lao vào bếp
lửa, tự vẫn. Người chồng cũ đau
xót, cũng nhảy vào lửa chết theo. Người chồng
mới ân hận, lao vào lửa nốt ! Trời thấy cả
ba người đều có nghĩa nên phong cho làm "vua bếp".
Thế gian một
vợ một chồng
Chẳng như vua
bếp hai ông một bà
(Ca dao)
V́ tích ấy, cứ đến
phiên chợ 23 tháng Chạp, mỗi gia đ́nh thường
mua 2 mũ ông, 1 mũ bà bằng giấy và 3 con cá chép làm
"ngựa" (cá chép hóa rồng) để Táo quân lên chầu
Trời. Sau khi cúng trong bếp, mũ được đốt
và cá chép được mang ra thả ở ao, hồ, sông.
Minh Hạnh sưu
tầm
|