TÌNH ĐỜI Ý ĐẠO

Tình đời, Ý đạo
(Cuộc đời Thánh tăng Ananda)
Hòa thượng Hộ Giác

Phần 5 _ Trang 2

Ðại đức Ananđa khóc kể

Thức ăn đã khiến chứng kiết lỵ tái phát đáng ngại. Mặc dù kiệt sức và đau đớn như ai bứt ruột, cắt gan, nhưng Ðức Tôn sư quyết định chịu đựng không một lời rên xiết. Gương mặt yên như bàn thạch và tiếp tục cuộc hành trình bằng chân đất.

Trên đường đi, Ðức Tôn sư phải dừng nghỉ nhiều lần. Tại một địa điểm, dưới gốc cổ thọ, Ðức Tôn sư dừng chân tạm nghỉ thì có một thanh niên tên Búc-cú-sá từng là môn đồ của thầy A-la-rá (1) đi ngược chiều. Ðược gặp Ðức Phật, chàng đến gần, bày tỏ sự ngưỡng mộ và lòng thán phục trước sự trầm lặng phi thường của Ngài. Sau khi nghe Phật giảng về sự an tịnh, sự không xao động và sự vắng lặng, chàng phát tâm cúng dường Ngài hai bộ y màu vàng thật đẹp.

Chú thích: (1) Những ngày đầu tìm đạo, Ðức Tôn sư cũng đã từng học đạo với vị này.

Theo lời Phật dạy, chàng dâng một bộ y cho Ngài và một bộ cho Ðại đức Ananđa. Nhưng Ðại đức đem bộ y của mình mặc luôn vào cho Ðức Phật. Ðại đức Ananđa rất ngạc nhiên khi thấy nước da Ðức Phật chiếu tỏa ánh sáng phi thường làm cho màu vàng của y bị mờ hẳn. Thấy chuyện lạ, Ðại đức bạch hỏi. Ðức Tôn sư dạy: có hai trường hợp mà màu da Như Lai rực sáng lạ thường, đó là đêm thành đạo và đêm Niết bàn.

Luôn tiện, Ðức Tôn sư tuyên bố đêm ấy vào lúc canh ba Ngài sẽ nhập diệt giữa song long thọ (Sàlà) trong vườn của tiểu vương Malla xứ Kusinara. Công bố xong, Ngài cùng với Ðại đức Ananđa ngự đến sông Cá-cú-tha. Sau khi tắm rửa sạch sẽ Ngài ngự vào vườn xoài và dạy thầy Chunđa, bào đệ Ðức Xá lợi phất trải y Tăng già lê xếp đôi thành bốn lớp để Ngài tạm nghỉ và sau đó sẽ tiếp tục lên đường.

Lúc bấy giờ, Ðức Tôn sư nghĩ đến người thợ bạc tên Cunda, một tấm lòng chí kính, chí thiện, một sự cúng dường lịch sử nhưng hậu quả có thể trái ngược. Như Lai phải làm sáng tỏ vấn đề này. Nghĩ vậy, Ðức Tôn sư bèn dạy Ðại đức Ananđa:

- Này Ananđa, Như Lai ngại rằng, sau khi Như Lai Niết bàn, dư luận có thể đổ tội cho Cunda, khiến thí chủ phải ân hận vô ích. Này Ananđa, có hai trường hợp mà thí chủ cúng dường thực phẩm đấng Như Lai sẽ được phước quả vô lượng đó là: Ngày Như Lai thành đạo và ngày Như Lai nhập diệt. Trường hợp trước, sau khi thọ thực của nàng Sujàtà, Như Lai chứng được phiền não Niết bàn; trường hợp sau, khi thọ thực của Cunda xong, Như Lai đạt được ngũ uẩn Niết bàn. Nếu sau này có dư luận bất lợi xảy ra cho Cunda thì ngươi phải giải tỏa dư luận ấy. Còn nếu chính Cunda vì thiển nghĩ mà ân hận thì ngươi cũng phải tuyên bố trung thực lời dạy của Như Lai trong vấn đề này để thí chủ yên tâm. Vì thực phẩm của Cunda là món ăn cuối cùng trong cuộc đời Như Lai, món ăn định mạng.

Sau đó, Ðức Tôn sư cùng với Ðại đức Ananđa và số đông tỳ kheo qua sông Hí-ranh-nhá-vá-ti (Hirannavati) thì cũng vừa đến Kúsinara. Ngài ngự vào vườn cây Sala của tiểu vương Malla, dạy Ðại đức Ananđa trải y Tăng già lê trên tảng đá giữa đôi cây song long thọ giao cành, rợp lá. Ngài nằm nghiêng tay phải, đầu day hướng bắc, mặt ngó hướng tây.

Lúc ấy từng đoàn nguời từ bốn phương tấp nập kéo đến đông vô số, khiến một chu vi rộng khuất tầm mắt mà không đủ chỗ chứa. Trước quang cảnh ấy, Ðức Tôn sư để lời xây dựng Ðại đức Ananđa:

- Này Ananđa, tứ chúng Phật tử cúng dường Như Lai bằng hình thức lễ vật không gọi là cúng dường cao thượng. Trái lại, người nào tích cực nghiêm trì chánh pháp, người ấy mới gọi là cúng dường Như Lai cao thượng.

Ðại đức Ananđa bạch Phật:

- Bạch Ðức Thế Tôn, trước kia, mỗi lần mãn hạ, chư tăng tứ phương đều về bái kiến và thỉnh giáo Ðức Thế Tôn, nhưng nay Thế Tôn niết bàn thì tăng chúng phải đến nơi nào để bái kiến?

- Này Ananđa, những địa điểm mà các ngươi có thể bái kiến, chiêm ngưỡng để tưởng nhớ Như Lai là:

1- Lumbini, nơi Như Lai đản sanh.
2- Bodhimandala, nơi Như Lai thành đạo.
3- Isipatanamigadàya, nơi Như Lai chuyển pháp luân.
4- Kusinàrà, nơi Như Lai niết bàn.

- Bạch Ðức Thế Tôn, trong đạo tràng, hàng nữ Phật tử chiếm đa số. Vậy, chúng đệ tử phải đối xử thế nào cho hợp lẽ?
- Này Ananđa, đừng nhìn, đừng ngó là thượng sách.
- Nếu bắt buộc phải nhìn, phải ngó?
- Thì đừng đối thoại.
- Nếu buộc phải đối thoại?
- Thì nên cảnh giác cao độ, không nên dễ duôi, buông thả để cho tâm phân biệt ngự trị. Này Ananđa, sự giao du quá thân mật với nữ giới là điếu tối kỵ của phạm hạnh.
- Nhưng nếu giao du thân mật mà không để tâm phân biệt thì có là điều tối kỵ hay không?
- Không, này Ananđa, ngươi còn nhớ chăng, Như Lai từng dạy rằng, ngoại cảnh đẹp, xấu không phải là điều ô nhiễm mà chính tâm phân biệt mới là điều ô nhiễm.

Ðại đức Ananđa bạch hỏi tiếp:

- Bạch Ðức Thế Tôn, sau khi Thế Tôn tịch diệt, nghi thức cung táng Thánh thể, chúng đệ tử phải làm thế nào, xin Thế Tôn từ bi chỉ giáo.

Ðức Thế Tôn ngăn cản:

- Ananđa, chớ quá bận tâm về hình thức lễ nghi không cần thiết, hãy nổ lực thiêu hũy phiền não trong mỗi oai nghi để chóng giác ngộ. Còn vấn đề tang lễ là nhiệm vụ của hàng Phật tử tại gia.
- Bạch Thế Tôn, đã đành vậy, nhưng nếu họ hỏi thì đệ tử phải trả lời ra sao?
- Này Ananđa, tang lễ dành cho đức chuyển luân vương ra sao thì tang lễ dành cho Như Lai cũng vậy.
- Bạch Thế Tôn, nghi thức thế nào?
- Này Ananđa, thông lệ như vầy: Lấy vải trắng bao tròn nhiều lớp, rưới nước hoa, liệm vào kim quan bằng sắt, dựng hỏa đài bằng các loại trầm kỳ rồi hỏa táng. Phần Xá lợi còn lại, thì nhập tháp công để chiêm bái cúng dường.

Nhân tiện, Ðức Tôn sư đề cập bốn hạng nhân vật xứng đáng lập tháp công để tôn thờ chiêm ngưỡng, đó là: Ðức Toàn giác Phật, Ðức Ðộc giác Phật, Ðức Thinh văn giác và Ðức Chuyển Luân Ðại đế.

Nói xong, Ðức Tôn sư yên lặng, Ðại đức Ananđa không còn cầm lòng được nữa, bèn lui ra đứng vịn thân cây gần đấy khóc than thảm thiết. Nước mắt chảy đầm đìa đọng lại dưới cằm và nhỏ xuống từng giọt. Lá y càsa rung lên từng hồi theo tiếng nấc. Thân hình Ðại đức mềm nhũn, không còn tự chủ nếu không nhờ vịn thân cây. Mặc dù cố gắng bình tỉnh nhưng bất lực, vì sự đau đớn cùng tột đã dồn ép khiến một vị trưởng lão 80 tuổi đã đắc quả nhập lưu, phải khóc than bi lụy. Sự kiện này chứng tỏ lòng thương kính Ðức Phật của Ðại đức là tuyệt đối. Trong giây phút, hình ảnh tuyệt vời, kỷ niệm tuyệt đẹp trong quá khứ mà Ðức Phật và Ðại đức đã từng đồng lao, cộng lạc suốt 25 năm dài chu du truyền đạo hiện lên thật rõ trong ký ức Ðại đức. Quá trình đã buộc cuộc sống Ðức Phật và Ðại đức sanh tử có nhau. Nhưng định mệnh khắc nghiệt cướp mất vĩnh viễn một bậc thầy quí kính, một người cha từ bi, một người bạn trí, đức toàn vẹn, một bậc Ðạo sư thánh thiện ra khỏi cuộc đời Ðại đức, một đạo nghiệp chưa tròn, một công phu chưa mãn thì bảo sao Ðại đức không tê tái cõi lòng, không nát tan tất dạ. Qua tiếng nấc nghẹn ngào, Ðại đức kể lể:

- Thế Tôn hỡi, nở nào bỏ đệ tử ra đi chẳng chút đoái hoài. Từ đây, đệ tử không còn nhìn thấy Ðức Thế Tôn nữa. Thôi đành vĩnh biệt ngàn thu. Tâm hồn đệ tử còn dẫy đầy phiền não. Rồi đây, trên đường liễu chứng, lấy ai là người hướng dẫn. Ðối với Thế Tôn, đệ tử bé bỏng quá, mới chập chững biết đi. Thế Tôn nỡ nào bỏ đệ tử cho đành.

Thấy vắng mặt Ðại đức Ananđa lâu, Ðức Tôn sư phán hỏi. Khi biết được Ðại đức khóc kể thảm thiết, Ðức Tôn sư cho gọi vào. Ðại đức vào hầu mà mặt mày bơ phờ, mắt còn mờ lệ. Ðức Tôn sư phủ dụ:

- Ananđa này, ngươi chớ quá khóc than bi lụy. Như Lai đã chẳng từng nói với ngươi rồi sao, rằng người đời phải bị chia lìa tất cả nhân vật yêu quí và ra đi vĩnh viễn. Trên thế gian này, không có định luật tồn tại bất biến. Sanh diệt là sự luân phiên liên tục của giòng đời tuôn chảy thiên thu.

- Bạch Thế Tôn, đệ tử nghĩ suốt bao năm theo hầu Thế Tôn như hình với bóng, nhưng rồi từ đây đệ tử sẽ theo hầu ai, đệ tử sẽ sống một mình cô đơn chiếc bóng. Nghĩ đến đó là đệ tử không cầm được nước mắt.

Ðức Thế Tôn khích lệ:

- Này Ananđa, ngươi đã dày công hành trì ba la mật, đã làm tròn bổn phận đối với Như Lai một cách tốt đẹp. Thân, khẩu, ý toàn thiện. Ngươi đừng buồn tủi. Hãy tích cực công phu hànhh đạo. Sau khi Như Lai tịch diệt không lâu, ngươi sẽ đắc quả thánh vô lậu.

Trong giây phút vô giá này, Ðức Tôn sư tuyên dương công trạng Ðại đức Ananđa. Ngài phán:

- Này các tỳ kheo, Ananđa bậc trí thức, thông suốt và quán triệt, phục dịch Như Lai vô cùng cẩn trọng, chu đáo. Các vị thị giả của chư Phật quá khứ cũng không hơn được. Ananđa điều hành phật sự có kết quả, biết thời cơ, thích nghi với mọi từng lớp, mọi hoàn cảnh, khả ái, đáng cho mọi người thân cận. Còn tài thuyết pháp thì người nghe không biết chán. Này các tỳ kheo, Ananđa quả thật là một người tuyệt hảo.

Ðại đức Ananđa nén lòng xúc cảm, giọng nói run run:

- Bạch Ðức Thế Tôn, Thế Tôn là vị chuyển luân pháp vương, đã thiết lập giáo truyền, là pháp vương của các quốc vương trên quả địa cầu, do đó, sự lựa chọn địa điểm Kusinara để nhập Niết bàn sợ e không xứng đáng, xin Ðức Thế Tôn hoan hỉ chọn địa điểm khác như: Ra-já-gá-há, Sa-văt-thi. Châm-pa, Sá-kê-tá, Kô-sâm-bi, hoặc Ba-ra-ná-si. Vì những nơi ấy, vua, quan, bá hộ, thương gia, thân hào, nhân sĩ đa số là đệ tử của Thế Tôn, họ sẽ cử hành tang lễ trang nghiêm và long trọng hơn.

- Này Ananđa, ngươi chớ quá bận tâm lo nghĩ. Ðời sống Như Lai là đời sống gương mẫu. Ngũ uẩn tuy nhập Niết bàn nhưng đức lành và đạo nghiệp Như Lai vẫn còn sống mãi với thời gian. Ananđa ơi, mục đích Như Lai xuất thế là để cung ứng phúc lạc cho tất cả pháp giới chúng sanh. Sự kiện sau đây ngươi nên biết. Ðó là, Như Lai đản sanh tại vườn Lumbini, thành đạo tại rừng Uruvelà, thiết lập giáo hội đạo tràng tại rừng Í-sí-pá- tá- ná- mí-đá-ya, và nơi an nghĩ cuối cùng của Như Lai là vườn Long thọ này. Tất cả, đều là những địa điểm lộ thiên. Hơn nữa, trong quá khứ, Kú-sí-ná-rá đã từng là một siêu cường do đại đế chuyển luân vương Má-ha-sú-đás-sá-ná cai trị, đế kinh là Kú-sa-vá-ti. Nước giàu, dân mạnh, lạc nghiệp, âu ca, tài tử giai nhân dập dìu xuôi ngược, cha mẹ hiền lành, con cái hiếu để, xã hội đạo đức, văn hóa quang minh, kinh tế thạnh vượng, chính trị tuyệt hảo. Ðại đế Má-ha-sú-đás-sá-ná chinh phục thuộc địa không bằng vũ lực, mà bằng đạo đức và tình người.

Ananđa ơi, thời vàng son của Ðại đế Má-ha-sú-đás-sá-ná nay còn đâu. Tất cả là bóng mờ sương khói. Cái hiện thành và tiêu tán chỉ là sự thay đổi liên hồi của nhân duyên bất tận, và cái định luật vô thường ấy nay đã đến Như Lai cũng phải đồng chung số phận.

Ðức Tôn sư dạy Ðại đức Ananđa thông báo ngày giờ và địa điểm Niết bàn đến tiểu vương Mallá. Tin này khiến nhà vua và hoàng thân quốc thích, văn quan, võ tướng vô cùng xúc động. Họ khóc kể như người thân yêu nhất đời sắp vĩnh biệt họ. Các bà mạng phụ phu nhân thì xõa tóc khóc than thảm thiết. Họ đều đưa tay lên trời gào thét:

- Ðức Thế Tôn hỡi sao vội ra đi! Một vì sao sáng sắp lìa ngôi. Cặp mắp của nhân loại sẽ vĩnh viễn nhắm lại.

Họ kéo nhau theo chân Ðại đức Ananđa, vừa đi vừa khóc kể. Ðại đức Ananđa sắp xếp cho họ được ưu tiên bái kiến Ðức Tôn sư lần chót, và sau đó, họ được hướng dẫn đến trại tiếp tân. Họ tiếp tục khóc kể suốt đêm, không ngủ. Thật là một đêm dài vô tận, một biến cố lớn nhất trong lịch sử loài người.

Tại vườn Long Thọ

Trăng rằm chiếu ánh sáng ngọc ngà xuống trần gian. Một ánh sáng huyền dịu, bàng bạc và mông lung. Vườn cây Long thọ cũng được ánh trăng chiếu cố. Ánh trăng nhuộm không đều có nơi màu ngà, có nơi màu đen khiến thành loang lổ.

Gió đêm thổi nhẹ từng hồi như mơn trớn. Cành lá Long thọ lay chuyển nhịp nhàng trông rất đẹp mắt. Quang cảnh im lặng lạ thường mặc dù hàng vạn người có mặt khắp xung quanh. Có nghe chăng là tiếng nấc nghẹn ngào và tiếng thút thít nhỏ to, xa gần, giữa đêm trường cô tịch. Ngay lúc ấy, bỗng xuất hiện một chàng thanh niên từ ngoài đi vào. Khi đến gần, chàng ta cho biết ý nguyện được bái kiến Ðức Phật. Ðại đức Ananđa ra tiếp và khuyên đừng làm kinh động Ðức Tôn sư.

Chàng thanh niên năn nỉ:

- Bạch Ðại đức, xin Ðại đức hoan hỉ cho đệ tử vào bái kiến để được bạch hỏi một vài điều thắc mắc.

- Ðạo hữu, xin đạo hữu đừng làm kinh động Ðức Thế Tôn vì Người đang mệt nhiều và sắp tịch diệt vào cuối canh ba này.

- Bạch Ðại đức, cơ hội của đệ tử chỉ còn có phút giây này. Xin Ðại đức từ bi tiếp độ cho đệ tử được vào bái kiến lần chót.

Ðại đức Ananđa một mực khước từ. Chàng thanh niên một mực năn nỉ. Ðức Tôn sư nghe được bèn dạy Ðại đức Ananđa cho phép chàng vào gặp. Với cử chỉ vô cùng khiêm cung Sú-phát-đá quì nghiêng mình gần thiền sàng, cẩn bạch:

- Bạch Ðức Thế Tôn, đệ tử tên Sú-phát-đá, một du sĩ mới tập sự hành đạo, được nghe tôn danh quí đức của Thế Tôn từ lâu, song chưa có dịp bái kiến. Hôm nay cơ hội ngàn vàng này, xin Thế Tôn cho phép đệ tử được hỏi vài điều thắc mắc.

- Ðược. Sú-phát-đá hỏi đi.

- Bạch Thế Tôn, các vị giáo chủ trong nhóm Lục sư là: Bu-rá-ná-cá-sá-pá, Măc-khá- lí-gô-sa-lá, Á-chí-tá-kê-sá-căm-bá-lá, Bá-cut-thá-cach-cha-dá-ná, Sanh-cha-dá- vê-lăt- thá-pút-tá, và Ní-găn-thá-na-đa-pút-tá được số đông quần chúng tôn sùng cúng dường, vậy họ có phải là Alahán hết phiền não hay không?

- Có phải đây là vấn đề chánh yếu thúc đẩy ngươi đến gặp Như Lai?

- Bạch Ðức Thế Tôn, đúng vậy.

Ðại đức Ananđa lấy làm băn khoăn hết sức vì câu hỏi của Sú-phát-đá hoàn toàn vô bổ. Ananđa vừa định mời Sú-phát-đá ra ngoài thì Ðức Tôn sư dạy:

- Sú-phát-đá, ngươi không nên quan tâm đến vấn đề này. Thì giờ của Như Lai cũng như ngươi còn quá ít. Ngươi nên hỏi những điều ích lợi cho bản thân.

- Vậy đệ tử xin hỏi 3 điều:

1- Có dấu chân nào trong hư không?
2- Ngoài chánh pháp có sa môn hay không?
3- Các hành có thường hay không?

Ðức Tôn sư đáp:

- Không có dấu chân trên hư không; ngoài chánh pháp không có sa môn; các hành đều vô thường.

Với Phật nhãn, Ðức Tôn sư nhận thấy căn lành thánh đạo của Sú-phát-đá, bèn dạy thêm:

- Này Sú-phát-đá, thánh đạo tám ngành là con đường cao thượng, có khả năng đưa hành giả đến Niết bàn. Bao giờ còn người hành trì bát chánh đạo thì bấy giờ sự liễu chứng quả vị La-hán vẫn còn.

Lãnh hội được giáo lý căn bản, Sú-phát-đá phát tâm xin xuất gia, Ðức Tôn sư cho biết, truyền thống giáo hội đã được qui định: du sĩ ngoại đạo muốn xuất gia phải chứng tỏ thiện chí và sự quyết tâm của mình bằng chấp tác cấm phòng nghĩa là phải sống biệt trú trong thời gian tối thiểu bốn tháng rồi mới được xuất gia.

Sú-phát-đá tỏ ra hết sức hoan hỉ và nói rằng: mình sẵn sàng chấp hành qui luật này bốn năm. Ðức Tôn sư thấy rõ đạo tâm kiên cố và duyên lành thánh quả bèn dạy Ðại đức Ananđa làm lễ xuất gia và dạy đề mục tham thiền cho Sú-phát-đá.

Vị tân thọ tỳ kheo này tích cực kinh hành niệm đề mục suốt canh hai với sự quyết tâm là phải đắc đạo chứng quả trước giờ tịch diệt của Ðức Tôn sư. Nên dù mệt mỏi vô cùng, thầy vẫn không đình chỉ kinh hành. Ðầu canh ba, thầy ngước nhìn ánh trăng, bỗng bắt gặp một áng mây che, khiến ánh trăng tối sầm lại, nhưng không lâu áng mây trôi qua, vầng trăng trở lại sáng đẹp lạ lùng. Sự kiện này đã giúp thầy nhận chân được nguyên lý vạn pháp rằng; tâm vốn sáng nhưng vì áng mây phiền não làm cho lu mờ. Nếu phiền não không còn, thì tuệ tâm tự nhiên hiển lộ và sẽ nhận chân được ba định lý bất biến là: các hành vô thường, các pháp vô ngã, tịch tịnh Niết-bàn. Nhờ huệ Minh sát, thầy đắc quả La-hán luôn cả lục thông trong giây phút ấy.

Thầy bèn đình chỉ kinh hành, đến đảnh lễ dưới chân Ðức Tôn sư và ngồi im lặng.

Ngay lúc ấy, Ðức Thế Tôn tỏ lời hơn thiệt với Ðại đức Ananđa:

- Này Ananđa, sau khi Như Lai tịch diệt, các ngươi có thể nghĩ rằng: sẽ không còn đối tượng hướng dẫn và giáo hóa các ngươi. Ananđa ơi, các ngươi hãy bảo cho nhau biết rằng: pháp luật mà Như Lai đã giải bày sẽ là đối tượng hướng dẫn và giáo hóa các ngươi, các ngươi hãy nương nhờ chánh pháp.

Ðiều thứ hai, khi Như Lai tại thế, các tỳ kheo xưng hô với nhau bằng danh từ hiền giả (Avuso) một cách đồng hóa. Nhưng sau khi Như Lai tịch diệt, các ngươi phải áp dụng lối xưng hô như vầy:

- Vị cao hạ gọi vị thấp hạ là Avuso (hiền giả).
- Vị thấp hạ phải gọi lại là Bhante hoặc Avasnà (bạch Ngài hoặc bạch Ðại đức)

Ðiều thứ ba: tỳ kheo Channa ngã mạn, khó dạy vì ỷ mình từng là thần tử cố cựu hầu cận Như Lai. Sau khi Như Lai tịch diệt, giáo hội nên tuyên phạt phạm tác (Brahmadanta) nghĩa là chư tăng không lý sự đến ngôn ngữ, hành vi và tư tưởng của ông ta. Ðiều phạt này đồng nghĩa với sự bất hợp tác. Ðây là một hình phạt nặng nề nhưng vô hại.

Ðiều thứ tư: những giới luật mà Như Lai đã chế định có rất nhiều. Nhưng sau khi Như Lai tịch diệt, vì thích ứng với hoàn cảnh xã hội, nếu tăng đồng ý có thể bỏ bớt những điều luật tương đối không quan trọng để thích nghi với trào lưu tiến hóa.

Ðức Thế Tôn dạy tiếp:

- Này các tỳ kheo, các thầy có điều chi chưa được thỏa mãn liên quan đến Phật, Pháp , Tăng, đạo, quả hoặc pháp môn tu chứng, thì nên hỏi để tránh sự ân hận, hối tiếc về sau rằng: lúc ấy, ở trước mặt Ðức Thế Tôn mà mình không chịu hỏi.

Tất cả đều im lặng. Vì thật ra các vị chỉ mong mỏi và chờ đợi được nghe lời chỉ giáo sau cùng của Ðức Phật. Ðức Tôn sư cố thu hết sức tàn, trăn trối:

- Này các tỳ kheo, đây là giờ phút sau cùng của Như Lai. Như Lai nhắc nhở các thầy rằng các hành là vô thường, sanh diệt là định lý. Các thầy chớ nên dễ duôi buông thả.

Giờ phút thiêng liêng đã điểm. Trên trời trăng sao vằng vặc, chẳng một áng mây. Cảnh vật trông thật hữu tình. Dường như trăng sao cố tình buông tỏa ánh sáng ngà ngọc xuống vườn Long thọ để soi tỏ thánh thể Ðức Thiên Nhơn Sư lần cuối.

Ðức Thế Tôn nằm yên nhắm mắt. Ðại đức Anuruddha (A nậu đà la) là bậc trưởng lão tôn túc được Ðức Phật ban khen là Ðệ nhất Thiên Nhãn có trọng trách theo dõi lịch trình nhập diệt của Ðức Phật. Ðại đức thấy rõ như vầy:

- Thoạt tiên, Ðức Tôn sư nhập sơ thiền, xuất sơ thiền nhập nhị thiền, rối tiếp tục nhập xuất xuôi chiều từ tam thiền, tứ thiền, không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, đến Diệt thọ tưởng định rồi xuất Diệt thọ tưởng định nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ và xuất nhập nghịch chiều từ phi tưởng phi phi tưởng xứ, vô sở hữu xứ, thức vô biên xứ, không vô biên xứ, tứ thiền, tam thiền, nhị thiền đến sơ thiền và sau đó từ sơ thiền căn bản, Ngài nhập nhị thiền, xuất nhị thiền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập tứ thiền. Ðến đây, Ðức Tôn sư thay vì xuất tứ thiền nhập không vô biên xứ thì Ngài tịch diệt ngay giữa khoảng ấy.

Ngay khi Ðức Tôn sư tịch diệt có xảy ra những hiện tượng phi thường: địa cầu rung động như sắp có địa chấn, đại dương gào thét dữ dội, hải triều ùn ùn dâng cao như sóng thần hồng thủy, núi Tu di như trở mình cúi đầu tiễn biệt, chim chóc thú rừng bay, chạy kêu lên những tiếng bi ai não ruột, trên trời sấm chớp bủa giăng, mây xám biến thành màu máu.

Cùng lúc ấy, âm thanh khàn đặc, nghẹn ngào, xúc cảm của Ðại đức Ananđa báo tin Ðức Tôn sư đã hoàn toàn tịch diệt.

Hàng triệu người, cả xuất gia lẫn tại gia đều ré lên khóc. Tiếng nức nở hòa với tiếng tức tửi tạo thành một âm thanh đứt ruột. Họ gào thét vang trời, họ xõa tóc kể lể, họ bứt đầu, bứt cổ, họ úp mặt xuống đất nằm dài. Một sự mất mát lớn lao, một sự thương tiếc ngập lòng, một cuộc chia ly vĩnh viễn.

Riêng các bậc thánh nhơn vô lậu thì cảm niệm sâu xa định lý vô thường của vạn hữu. Các Ngài chia nhau đi an ủi và khuyên nhủ hàng Phật tử tại gia.

Ðời sống Ðức Phật quả là một gương sáng tuyệt vời.

Suốt 45 năm phục vụ công ích, Ðức Tôn sư chỉ dùng một ngọ, dù công tác Phật sự có khổ cực đến đâu. Nhị vị đại đệ tử Xá lợi phất, Mục kiền liên, các vị giáo chủ trong nhóm Lục sư, ông Cấp cô độc đại thí chủ và những nhân vật hoặc bạn hoặc thù đều qui tiên trước Ngài tất cả.

Hồi tưởng 45 năm về trước, Ðức Phật một mình chiếc bóng tại gốc Bồ Ðề, ánh sáng tuyệt diệu chân lý bừng sáng lên cùng lúc với ánh sáng rực rỡ của mặt trời. Ðể rồi 49 ngày sau đó, Ðức Tôn sư lại cũng một mình đi bộ sang Bà-rà-na-si mất 10 ngày đường để tìm năm người bạn củ. Giờ đây môn đồ Ngài đã lên đến con số nhiều muôn vị. Hàng Phật tử tại gia thì chiếm con số khổng lồ hằng chục triệu.

Bốn mươi lăm năm về trước, cơ sở của Ngài là gốc đại thọ bồ đề và ít bó rơm khô, nhưng giờ đây thì chùa chiền, tịnh xá, giảng đường, lăng viện mọc lên như nấm. Vua, quan, thân hào, nhân sĩ, bá hộ, thương gia tranh nhau cúng dường.

Thời đó, tại gốc đại thọ bồ đề gần sông Ni liên thiền Neranjarà dưới ánh trăng tròn của đêm rằm tháng tư âm lịch, Ngài chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác, nghĩa là đắc được phiền não Niết bàn với khúc khải hoàn ca hùng lực, giờ đây, trong vườn Long Thọ (Sàlà) dưới đôi cây giao cành, đơm bông, kết lá, cũng khí trời mát mẻ của đêm trăng tròn, Ngài lại vĩnh viễn ra đi, sau khi nhắn nhủ những lời tâm huyết.

Tin Ðức Tôn sư tịch diệt truyền đi mau không tưởng tượng, đến nổi khắp châu nam bộ, từ thành thị đến thôn quê đều biết. Họ khóc kể kêu trời gần như thấu đến chín tầng mây.

Theo quyết định chung thì Thánh thể Ðức Tôn sư được quàn 7 ngày để Phật tử tứ phương chiêm bái. Quang cảnh xung quanh vườn Long Thọ toàn một màu trắng, màu đại tang.

Ðến ngày thứ bảy, kim quan được cung tống đến hỏa đài hướng đông tên Má-kú-tá-bê-tí-yá để làm lễ trà tỳ. Nghi lễ tại hỏa đài được tổ chức vô cùng long trọng. Khi lễ phóng hỏa sắp bắt đầu, thì có tin Ðại đức Ca-diếp (Kassapa), một vị tôn túc trưởng lão mà Ðức Tôn sư tuyên dương là Ðệ nhất về hạnh đầu đà đang trên đường sắp về tới. Tiểu vương Mám-má và nhóm hoàng thân cũng như Ðại đức Ananđa đều đồng ý tạm hoãn lễ trà tỳ chờ Ðại đức Ca-diếp về làm chủ lễ.

-oOo-

Xem Tiếp Phần 6

Trở Laị Phần 5

Trở Lại Trang Truyện Ngắn Trở lại Trang Chánh