Trang chính

 
Trang Diệu Pháp
Trang Pháp Đàm
A Tỳ Đàm
Bài Giảng Kệ Ngôn KPC
Trang Pháp Âm
Truyện Ngắn

Ngôi Bảo Tháp Đại Giác

 


Cội Bồ Đề


Chùa Pháp Luân

PT. Minh Hạnh chuyển biên
 

Trang Diệu Pháp     TT Thích Giác Đẳng tường thuật

HTVPG - Pháp Âm (Audio)


Hành Tri`nh Về Phương Đông

Phật tử chùa Pháp Luân hành hương từ ngày 27 tháng 10 đến ngày 15 tháng 11, 2004 - Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc, Thái Lan

TT Giác Đẳng: (tường tri`nh ngày 20/11/2004)Phái đoàn sau khi rời Bồ Đề Đạo Tràng ở hai đêm tại đó, sáng sớm đă lên đường để đi Kushinagar, tức là thánh tích nơi Đức Thế Tôn viên tịch Niết Bàn, đó là một chặn đường khá dài với hơn 400 cây số và chặn đường có một đoạn hết sức xấu từ Vaisali về Kushinagar. Đoạn đường này đưa phái đoàn đi ngang hai địa danh đặc biệt quan trọng như chúng ta đều biết rằng Bồ Đề Đạo Tràng nằm trong tỉnh Bihar, và tỉnh bang này xưa kia là vùng đất mệnh danh là Ma Kiệt Đà (Magadha) là quê hương của vua A Dục.

Chung quanh Bihar và Nepal có hai quốc gia lớn thời Đức Phật đó là quốc gia Kosala là Kiều Tát La và quốc gia Ma Kiệt Đà tức là Magadha, nhưng hai vương quốc lớn này lại cách biệt với Hy Mă Lạp Sơn với bốn vương quốc nhỏ là vương quốc của gio`ng Sakya vương quốc của gio`ng Koliya vương quốc của xứ Malla và vương quốc của xứ Vajji, bốn tiểu quốc này tuy rằng không lớn như Ma Kiệt Đà (Magadha) và Kiều Tát La (Kosala) nhưng bốn vương quốc này đặc biệt tương đối là hùng mạnh trong đó phải kể đến gio`ng Thích Ca và kể đến vương quốc Vajji.

Trên đường đi Kushinagar đă ghé ngang Patna nguyên ngày xưa gọi là Pataliputra trong kinh Hán gọi là Hoa Thị Thành. Pataliputra đă là kinh đô của triều đại Mauryan triều đại Sơn Ca mà trong thời triều đại Gócta măi cho đến triều đại Kanisha thi` mới rời về một nơi khác, nhưng Patalitutra đă là chiếc nôi, là trung tâm quyền lực của Ấn Độ một thời gian rất dài. Ngày nay thi` Patna chỉ là một thủ phủ của tỉnh Bihar tức là một tỉnh nghèo ở tại Ấn Độ và tương đối có vai tro` rất khiêm tốn. Nhưng Patna nằm bên sông Hằng thỉnh thoảng có những cuộc hành hương khổng lồ từ Ấn Độ về đây, và cũng tại Patna chúng ta biết rằng vua A Xà Thế và sau đó là Upana, nhiều vị vua hậu duệ ở trong đó có một vị rất nổi tiếng đó là vua A Dục Asoka của triều đại Mauryan đă đóng đô đă đóng đô tại đây.

Tại đây cũng là nơi kết tập tam tạng lần thứ ba khoảng hơn 220 năm sau khi Đức Thế Tôn Ngài viên tịch, cuộc kết tập tam tạng này đánh dấu một bước ngoặc mới về sự chấn chỉnh những quan niệm để về sau này ở trong đạo Phật, và chính ở tại nơi này vua A Dục đă gửi đi những bộ truyền giáo, những nhà Sư, những bậc danh tăng khả kính của Phật giáo đă đi nhiều nơi từ vùng Trung Á cho đến các quốc gia mà trong đó chúng ta tin rằng có Sumalacum, một phần đất của Đông Dương ngày nay chúng ta được biết đến để truyền bá Phật giáo.

Tỉnh Pataliputra cũng được ghi chép nhiều ở trong cuối cuộc đời của Đức Thế Tôn khi Ngài đặt chân đến đây, bây giờ người ta đang xây dựng những đền tháp, những thành phố, những con đường mà theo ở trong kinh thi` cho biết rằng chính các vị Chư Thiên, tức là những vị phi nhân, những chư thiên cảm thấy hoan hỷ muốn xây dựng thành phố này nên đă cảm ứng xui dục những dân tại đây xây dựng thành phố, cuối cùng con của vua A Xà Thế đă rời kinh đô về đây, sau đó thi` vương xá bị bỏ trống. Pataliputra ngày nay là một thành phố hơn 6 triệu dân, kể ra thi` cũng nhỏ so với tầm cở của Ấn Độ nằm ở bên gio`ng sông Hằng êm ả.

Từ ở bên này chúng ta có thể ngó sang phía bên kia là một vùng đất mà ngày nay có những nơi trồng chuối, trồng những hoa mầu xanh biết, nhưng mà thưa qúi vị, trước kia thi` bên này Pataliputra bên kia là xứ Vajji, Vajji đă là một vương quốc hùng cường mà theo ở trong kinh thi` ngày xưa những bến cảng của Vajji đă tạo nên sự thèm khát của vua A Xà Thế để chinh phục xứ này, có thể nói Vajji là một nước cộng hoà dân chủ.

Cũng thời bấy giờ chúng ta được nghe nói đến gio`ng bộ tộc của nước Licchavi, bộ tộc trị vi` bằng cách là có một hội đồng gồm các vị tộc trưởng thay phiên với nhau để trị vi` vương quốc, tương tự như một thể chế quốc hội lập hiến ngày này đó là một nền dân chủ xưa nhất ở trong lịch sử của loài người.

Phái đoàn về tới Patna thi` vào buổi trưa ghé lại khách sạn Chachian để dùng cơm, khách sạn này chỉ một khách sạn thôi nhưng trong đó lại có nhiều pho`ng, như pho`ng Taxia hay những pho`ng Manada, nơi người ta nhắc đến địa danh nổi tiếng trong lịch sử của đạo Phật, khách sạn này cũng có thể nói rằng muốn giới thiệu rất nhiều cho du khách đi đến để thấy, để nhớ về một thời vàng son của tiểu bang Bihar, trước kia là một chiếc nôi của nền văn minh Ấn Hà, đồng thời cũng là một trung tâm quyền lực lớn có thể nói rằng bao nhiêu thế hệ trị vi` đất nước Ấn Độ.

Ở Patna chỉ có một buổi ngắn để dùng cơm trưa, rồi phái đoàn băng ngang sông Hằng để qua bên kia, sông Hằng vốn trước kia thuộc về lănh địa của xứ Vajji, những Hoàng tử nước Licchavi để lại cho chúng ta những hi`nh ảnh rất khó quên, trong đó có một lần Đức Phật Ngài đă nhi`n những vị Hoàng tử Licchavi đi trên những con ngựa với nhung giáp cùng màu, Ngài đă ân cần nói với những vị ty` kheo rằng vị nào không có thần thông mà muốn thấy được Chư Thiên ở cơi trời Tam Học Tam Thiên thi` sẽ nhi`n thấy như vậy, những vị Licchavi giống như chư thiên ở trên Tam Học Tam Thiên, điều đó cũng cho chúng ta biết một số hi`nh thức ăn mặc trang phục cũng như là hi`nh tướng của chư thiên ở Tam Học Tam Thiên qua lời dạy của Đức Phật.

Licchavi cũng nhắc chúng ta về câu chuyện của nàng Ambapali một danh kỹ của Vaisali, một người đă một thời nổi tiếng về sắc đẹp, sự thu hút các vương tôn công tử cực ky` giàu có nhưng cuối cùng lại gặp Đức Phật, và cúng dường khu vườn soài của mi`nh trở thành một tịnh xá, co`n bản thân của mi`nh thi` trở thành một vị ty` kheo ni sau đó thi` đắt đạo chứng quả trở thành bậc thánh ni ở trong đạo tràng của Đức Phật.

Licchavi cũng nhắc chúng ta bài kinh Ratanasutta kinh Châu Báu khi Đức Phật về Vaisali trong dịp nơi này gặp khổ nạn và khổ nạn đó là đói khát bịnh tật của phi nhân, nhưng có lẽ điều đáng nhớ nhất của Vaisali là trường hợp chính ở tại địa danh quan trọng này Đức Thế Tôn đă cho phép thành lập ni đoàn và đó là một khúc quanh quan trọng của lịch sử đạo Phật, di mẫu Maha Ba Xà Ba Đề tức là bà Maha Pajapati Gotami từ kinh đô Ca Ty` La Vệ cùng với 500 công nương đi bộ đầu trần chân không khoát aó nâu so`ng, khoát áo càsa để về Vaisali xin Đức Thế Tôn cho phép thành lập di đoàn và sau ba lần khẩn khoản cũng như những lời thỉnh cầu của Tôn Giả Ananda sự ban hành bát kỉnh pháp, Đức Thế Tôn đă chính thức cho phép lần đầu tiên người nữ trong lịch sử nhân loại được sống thành một đoàn thể tu sĩ với đầy đủ nghi luật, đầy đủ qui định và nó có một ảnh hưởng lớn nhỏ mà chúng ta sẽ bàn trong một dịp khác.

Ngày nay Vaisali co`n ghi đậm nét với một trụ đá co`n nguyên vẹn được dựng lên từ thời vua A Dục, đặc biệt trụ đá này chỉ có một con sư tử ngồi duy nhất co`n nguyên vẹn và rất đẹp ở bên cạnh đó là tháp để đánh dấu nơi Đức Phật cho phép thành lập ni đoàn cũng như là nơi mà một con khỉ đang cúng dường mật ong cho Ngài khi Ngài co`n lưu lại ở tại đây. Vaisali cũng co`n có một đền tháp có một câu chuyện truyền ky` đó là sau khi Đức Thế Tôn viên tịch thi` Vaisali là một trong tám kinh đô hay là Licchavi là một trong tám nước mà được 1/8 xá lợi của Đức Thế Tôn thi` các vị hoàng tử nước Licchavi đă thỉnh xá lợi về Licchavi để thờ phượng, bảo tháp này sau khi vua A Dục đăng quang, và trong khi vua A Dục trở thành một Phật tử thuần thành cũng như là những bảo tháp khác nhà vua đă cho đến mở những bảo tháp này ra để thỉnh xá lợp phân tán trong nhiều nơi trong lănh thổ Ấn Độ.

Chúng ta được biết rằng có một câu chuyện ghi lại được ti`m thấy ở trong kư sự của Ngài Pháp Hiển tức là Ngài Huyền Trang và cũng được ti`m thấy ghi trong một vài nơi trong sớ giải của Pali mà chúng ta không biết là sự việc đó nó hư thực ra sao, chỉ được biết rằng đầu tiên người ta đến thỉnh một phân nửa phần xá lợi và sau đó thi` nhà vua lại cho đến 1/4 co`n lại, nhưng sau đó nhà vua lại cho đến để chia xá lợi thêm trong đó cho các tháp mới được xây cất ở những nơi khác, thi` lúc bấy giờ sấm chớp mưa gió tầm tă suốt bảy ngày như vậy, cố gắng lần thứ hai, thứ ba vẫn không thành, do vậy nhà vua nghĩ chư thiên muốn phần xá lợi đó giữ lại ở tại bảo tháp này đă vốn được xây dựng cho nước Licchavi, nên phần xá lợi đó co`n giữ nguyên như vậy, măi cho đến về sau này khi tướng Cunningham và người phụ tá của ông đến thăm viếng nơi này đă khai quật và ti`m thấy hộp đựng di cốt, tức là hộp đựng xá lợi của Đức Thích Ca Mâu Ni mà các người Licchavi đă thờ phượng, họ đă thỉnh phần xá lợi đó về viện bảo tàng Patna. Nhưng mà theo một bản ghi nhận thi` câu chuyện của Ngài Huyền Trang ghi lại nên người ta đă nghĩ ra một ít xá lợi theo một vài viên chức của viện bảo tàng thi` đă có hai viên xá lợi co`n giữ lại tại trong nền tháp này.

Ngày nay thi` khác hẳn những loại xá lợi khác, những nền tháp khác, những nền tháp này khi được khai quật nên, thi` c̣n một nền tức là một phần để giữ ngọc xá lợi này lại tại đó. Mỗi lần chúng tôi đến chúng tôi vẫn thường qùi ở bên ngoài để đảnh lễ, mặc dù không biết là co`n bao nhiêu xá lợi được giữ lại dưới nền tháp đó, một đặc điểm chúng ta được biết là theo sự xây cất ngày xưa khi xây cất thờ xá lợi người ta thường giữ xá lợi không phải ở trên đỉnh tháp mà giữ ở dưới nền tháp, tức là dước đất, chúng ta cứ tưởng tượng một công tri`nh xây cất khi xây dựng nền xong thi` ở trong nền đó người ta chôn xá lợi vào chính giữa và cất trên đó một tháp khổng lồ, nó có nhiều ly’ do để về sau này khi có giặc giă hay có những người xâm lăng đến mà họ muốn cướp đi xá lợi thi` họ phải mất rất nhiều ngày để đập tháp ra để lấy xá lợi, và biết đâu trong thời gian đó thi` công việc có thay đổi đi và quả thực như vậy ở trong quá khứ chính việc truy ti`m xá lợi làm nản lo`ng rất nhiều người bởi vi` việc đập đổ một công tri`nh lớn và điều này đă khiến cho nhiều xá lợi đă được gi`n giữ nguyên vẹn lại ở tại Ấn Độ và tại các nơi khác.

Tuy nhiên khi người Phật tử Nhật Bản đến Vaisali muốn xây cất một tháp xá lợi lớn ở nơi này tức là tháp Shanti, là tháp được chính thức khánh thành bởi chính phủ Ấn Độ thi` người ta đă làm hai việc, đó là thỉnh một phần xá lợi ở của viện bảo tàng Patna về chia làm hai, một phần thờ dưới nền tháp và một phần thờ trên đỉnh tháp đó là một việc rất ngoại lệ, đa số xá lợi của Đức Thế Tôn được tôn trí ở trong nền tháp tức là ngang mặt đất chứ ít có khi nào tôn trí ở phần cao như tại Trung Hoa và Nhật Bản.

Từ Vaisali phái đoàn đă làm một cuộc hành tri`nh tương đối hơi vất vả, suốt 12 năm qua chúng tôi mỗi lần đi ngang con đường này đều rất là lo ngại cho sức khỏe của qúi Phật tử, bởi vi` con đường rất xấu, nhiều vị bộ trưởng đă ở tù vi` tội thâm lạm ngân sách ở đây, cho đến hôm nay thi` con đường này vẫn là con đường tệ nhất ở trong những con đường đi hành hương. Mỗi lần chúng tôi đến đó chúng tôi nói với Phật tử rằng con đường có rất nhiều ổ gà, thi` sau đó có nhiều Phật tử phát biểu rằng không phải là ổ gà mà là ổ trâu và có nhiều người nói không phải là ổ trâu mà là ổ voi, tại vi` có những đoạn đường rất xấu, có những hố rất lớn chúng ta có thể nhi`n thấy rất nhiều xe vận tải bị hư phải sửa ở bên vệ đường, và mặc dù xe chạy rất chậm, né tránh rất nhiều hố nhưng đôi lúc hầu như không có chỗ nào để né, bắt buộc phải chạy hết sức chậm, đi qua những hố này. Chúng ta không biết chừng nào chính phủ tỉnh bang Bihar mới có thể sửa lại con đường này cho nó khá hơn.

Phải nói rằng tại Ấn Độ làm việc gi` cũng rất chậm và tỉnh bang Bihar là tỉnh bang nghèo nhất của Ấn Độ, ti`nh trạng nghèo đói hối lộ làm cho những công việc về cầu cống càng trở nên tri` trệ hơn. Cuối cùng 11 giờ khuya phái đoàn đặc chân đến thánh địa Kusinara, phái đoàn không ở khách sạn mà ở trong một ngôi chùa của Thái Lan trong thánh địa của Kusinara. Chùa Thái Lan này là một ngôi chùa được dựng lên bởi một vị Tăng sĩ trong Phật giáo Thái Lan và vị này rất có tài, chính vị này đă xây dựng ra ngôi chùa tại Khushinagar hay ở Lumbini, ngôi chùa này được gọi là Wat Muom tức là ngôi chùa của hoàng gia, vua Thái Lan đă cúng 5 triệu tiền Thái trong việc xây dựng một ngôi tháp ở tại đây và có thể nói rằng một ngôi chùa xây cất với một kiến trúc hết sức mỹ thuật, đặt biệt hết sức đẹp về phương diện kiến trúc cũng như bố trí ở trong ngôi chùa, rất trật tự. Ngôi chùa với bố tát đường cao và một ngọn tháp một kiến trúc đẹp mắt, bao bọc chung quanh là văn pho`ng tăng xá, và có một khách xá dài có nhiều pho`ng cho khách hành hương về ở. Khách xá được lót bằng đá hoa cương được gi`n giữ cận thận sạch sẽ, có một ngôi nhà bếp hết sức tiện nghi và đầy đủ để cung cấp cho khách hành hương đến, đặt biệt là có một quán cóc nhỏ, cho khách hành hương có thể ngồi lại uống trà càfê hoặc những thức lạnh. Phía sau chánh điện có một cái cóc lợp bằng tranh trong một khu vườn nên thơ dành cho những khoá thiền, có thể nói rằng một trong những công tri`nh tu học rất đáng kể ở trong số các ngôi chùa xây cất chung quanh những thánh địa Phật giáo ở tại Ấn Độ và Nepal.

Phái đoàn ở đây một đêm để nghỉ dưỡng sức, sáng hôm sau thức sớm tinh sương phái đoàn lại ra ngoài thánh địa Bồ Đề, tại thánh địa Kushinagar nơi Đức Thế Tôn viên tịch. Chúng tôi thích đưa phái đoàn ra thánh địa này vào buổi sớm tinh sương, có khi những phái đoàn đến lễ Phật vào buổi chiều và buổi sáng hôm sau chúng tôi lại đưa phái đoàn ra đó, cái cảm giác để có thể có mặt tại thánh địa tại thánh tích Kushinagar vào buổi sáng với một màng sương giăng ngang lưng trời bao phủ, cái mờ ảo đó cho chúng ta một cái gi` hết sức khó tả bằng ngôn ngữ, phái đoàn vào trong, khi đó đang có Chư Tăng tụng kinh buổi sáng, chúng tôi chờ một chút khi khoá lễ vừa xong thi` phái đoàn vào tụng kinh rồi làm lễ dâng y đến tôn tượng Phật, vừa đội y đi nhiễu Phật ba vo`ng. Đang là mùa dâng y, chúng ta lại cúng dường y càsa đến Đức Phật là một điều hết sức cảm động, phái đoàn đă qùy trước để tụng kinh trước pho tượng Phật, đây là một pho tượng Phật có lịch sử trên 1500 năm chúng ta biết tạc từ đời Ghata với một đường nét mỹ thuật tương đối rất độc đáo. Thông thường những pho tượng Phật khác khi mà chúng ta nhi`n vào pho tượng Phật ở trước mặt và ở ngang thi` chúng ta có cảm giác khác nhau, nhưng đây là một pho tượng nằm, chúng ta nhi`n từ bất cứ góc độ nào vẫn có cảm giác có thể nói rằng đó là một nghệ thuật rất cao về phương diện tạc tượng, pho tượng lớn dài 6 mét, khi đi nhiễu chung quanh cho chúng ta nhớ lại hi`nh ảnh của Đức Thế Tôn ngày xưa nằm trên phiến đá trong vùng Sala của vua Malla.

Thánh địa này khác hơn Bồ Đề Đạo Tràng, Lâm Ty` Ni, và chuyển Pháp Luân, thánh địa này vốn là công tri`nh trùng hưng của hai vị Tăng sĩ, hai vị Tăng sĩ này một vị Mahavia Shalami cũng là người Ấn Độ, sanh trưởng tại Ấn xuất thân từ một gia đi`nh thế gian vọng tộc có quyền tại vùng đất bấy giờ, khi đọc lại lịch sử của Đức Phật nên phát tâm sang Tích Lan tu tập và trở về sống tại thánh địa này, sau đó thi` Ngài Chandaghama là một vị Tăng sĩ khác từ Bangadat, xuất gia tại Bangadat lúc bấy giờ cũng từ Ấn Độ xuống đây, thời đó rất hoang sơ, và hai vị Tăng sĩ này đă cùng nhau sống tại thánh địa, để khôi phục thánh địa này, măi cho đến năm 1952 khi chính phủ Ấn Độ tổ chức lễ kỷ niệm 2500 Phật lịch, thi` chính phủ Ấn Độ mới bắt đầu có một số các công tri`nh để trùng tu thánh địa, tuy nhiên căn bản việc trùng tu thánh địa vẫn là do hai vị Tăng sĩ người Ấn Độ, đặt biệt là vị đầu tiên sanh ra và lớn lên ở Ấn Độ đă trùng tu thánh địa này.

Bây giờ chúng ta đến vẫn co`n ti`m thấy được hai điều rất quan trọng, một là ngôi chùa Ấn Độ với pháp xá có nơi kiết si ma như ngôi chùa Miến Điện, pháp xá kiết si ma nằm kế bên thánh địa, nơi này là nơi mà Ngài Chandamani tức là vị Tăng sĩ người Ấn Độ đă ở và đă có công trùng tu ngôi chùa này. Chúng tôi cũng gặp một vị trụ tri` người Miến Điện sống tại đó hơn 42 năm, và vị này cũng đă từng sống với Ngài Chandamani, Ngài Chandamani tịch vào năm 1972. Người đó, cảnh đó, chùa đó co`n lưu lại cho chúng ta rất nhiều công tri`nh của một người mà bất kể trời mưa, trời nắng, lạnh nóng ở lại để chăm sóc thánh địa trong một thời gian dài.

Chúng tôi đến đảnh lễ thánh địa rồi sang đảnh lễ ngôi tháp tại chùa Miến Điện và nhớ lại công ơn của Ngài, và thật sự ở trong lo`ng hết sức xúc động, qúi vị nào có đến Ấn Độ vào mùa hè và mùa đông thi` qúi vị mới hiểu được là những vị mà đă hy sinh như vậy, công đức lớn như thế nào, ở thánh địa thi` có thể nói rằng mùa hè thi` nóng chảy mở, cái nóng mà các vị Tăng ở chùa Thái Lan cho biết là khăn mà nhúng nước đội trên đầu đi từ Tăng xá ra chánh điện nó gần như là khô, nói như thế là qúi vị hiểu cái nóng cháy da như vậy, và mùa đông thi` lạnh buốt xương, nhưng các vị đă ở từ năm này sang năm khác, có những khi mà năm bảy tháng không gặp một người Phật tử nào, cho đến khi có một Phật tử hành hương từ xa đến, và mùa hành hương họ cúng dường tứ sự để có thể sống những năm tháng co`n lại tại thánh địa, chúng ta nghĩ đến điều này thi` chắp tay cúi đầu những vị kiên tâm tri` trí ở lại để gi`n giữ thánh địa này.

Sau khi rời chùa Miến Điện phái đoàn ghé sang thăm chùa Linh sơn, đúng ra thi` tại đó người ta gọi là chùa Trung Hoa, bởi vi` ngôi chùa này do người Trung Hoa thành lập sau đó cúng lại cho HT Huyền Vi giáo hội Linh Sơn, bây giờ thi` Ni Sư Trí Thuận đang trụ tri` và đang có những công tri`nh trùng tu tại đây, Ni Sư Trí Thuận cũng đang cất những tiểu cảnh, như cảnh đản sanh, cảnh đạo chuyển pháp luân, cảnh khổ Hành Lâm ở trên khuôn viên của chùa cho khách hành hương đến thăm viếng, đó là y’ kiến của Ni Sư.

Và ở tại đây thi` phái đoàn phải làm một việc là phân nửa trở về dùng cơm trưa tại chùa Thái Lan, bởi vi` trưa hôm đó có lễ trai tăng tại chùa Thái Lan do phái đoàn tổ chức, và phân nửa dẫn đầu bởi HT Nguyên An sang dùng một bữa cơm ở tại Kushinagar theo lời mời, trước thịnh ti`nh khẩn khoảng của Ni Sư thi` phái đoàn phải chia làm hai như vậy.

Nhưng trước khi dùng cơm phái đoàn cũng đă ghé điện thờ Maccachia cách thánh địa khoảng chừng vài mươi thước, chính tại nơi đây đánh dấu nơi Đức Thế Tôn dùng cái tách nước cuối cùng trước khi Ngài sang bên tảng đá của công viên Mupala dưới cội hai cây long thọ để viên tịch Niết Bàn. Tại đây bây giờ co`n có một pho tượng Phật bằng đá chunar, pho tượng rất đẹp trong thế là Súc Địa Ấn, cao hơn 2 thước rưỡi, và pho tượng này có lịch sử 1000 năm. Ngày xưa người Miến Điện đă xây cất cách nay khoảng chừng 80 năm, một điện thờ rất nhỏ ở chung quanh để gi`n giữ pho tượng này, điện thờ thi` tương đối nhỏ so với tầm cỡ của pho tượng và giá trị của pho tượng. Khi chúng tôi đến người canh gác họ mở cửa cho phái đoàn vào để chiêm bái đảnh lễ pho tượng này, rồi sau đó phái đoàn lại đến Kumason suttpa nơi làm lễ trà ty` di thể của Đức Phật, chúng ta được ngồi đó để được nghe kể về lịch sử xá lợi của Phật, chúng tôi kể về lịch sử xá lợi Đức Phật cũng như kể về câu chuyện Bà La Môn Dona đă chia xá lợi của Đức Phật một cách hoà bi`nh như thế nào cho những quốc gia đến để xin được chia phần xá lợi của Đức Phật.

Sau đó thi` phái đoàn về lại chùa Thái và chùa Linh Sơn để dùng cơm, có một buổi trai tăng tại chùa Thái Lan, buổi trai tăng hôm đó thi` phái đoàn đă cúng dường tổng cộng là 41 vị kể cả các vị ty` kheo sa di, chúng tôi cũng có để bao thơ cùng dường luôn các vị tu nữ, cũng như những người làm công quả trong ngôi chùa xem như một buổi trai tăng thứ hai mà phái đoàn được một phước sự thứ hai trong chuyến đi hành hương Ấn Độ.

Sau đó khởi hành đi Purapur tới chiều khoảng 5 giờ thi` đặt chân đến biên giới của Nepal để làm thủ tục sang khách sạn, nhưng phái đoàn đi hơi đông nên khách sạn Nirvana đă không đủ chỗ, phải rời khách sạn Frantic, chia thành hai nơi như vậy. Chúng tôi sẽ kể thêm về chi tiết của thánh địa Lâm Ty` Ni vào ngày mai.

TT Giác Đẳng: (Tường tri`nh ngày 23/11/2004)Trong chuyến đi hành hương, cách đây hai ngày chúng tôi đă có một bản tường tri`nh của phái đoàn sau khi rời Bồ Đề Đạo Tràng và đến chiêm bái thánh địa Kusinara nơi Đức Thế Tôn viên tịch Niết Bàn và sau đó từ Kusinara rồi đi ra biên giới Nepal và Ấn Độ, cuối cùng đến thánh địa Lâm Ty` Ni.

Chúng ta phải nói về Nepal, Nepal là một vương quốc nhỏ nằm dưới chân Hy Mă Lạp Sơn. Nepal có một lịch sử tương đối đặc biệt với đạo Phật, ngày hôm nay Nepal là một vương quốc Ấn giáo duy nhất, Ấn Độ là một quốc gia đông dân theo Ấn Giáo nhưng Ấn Độ không phải là một vương quốc Ấn giáo, trong khi Nepal là một vương quốc mà 80% dân chúng theo Ấn giáo. Nhưng rồi cũng phải nói thêm rằng đă có thời ky` Phật giáo trong quá khứ phát triển rất mạnh và co`n để lại dấu ấn. Như chúng ta biết rằng trong suốt 1700 năm lịch sử của đạo Phật, thi` 500 năm đầu là thời ky` hưng thịnh của Phật giáo nguyên thủy, 500 năm kế là thời ky` hưng thịnh của Phật giáo Đại Thừa và 700 năm cuối cùng trước khi Phật giáo bị diệt, vào thế kỷ thứ 12 tại Ấn Độ là 700 năm của Phật giáo Phật giáo Kim Cang Thừa hay là Phật giáo Mật tông.

Mặt dầu Phật giáo Kim Cang thừa đă vắng mặt ở trên vùng đất Ấn Độ nhưng mà co`n để lại rất nhiều dấu ấn sâu đậm tại Nepal, tuy nhiên đă có thời người ta nói rằng người Nepal co`n chùa co`n Phật và co`n những hi`nh tượng về cuộc đời của Đức Phật nhưng hoàn toàn vắng bóng Tăng lữ. Sự vắng bóng này trong suốt cả ba bốn thế kỷ khiến cho người Nepal phần lớn chỉ đến chùa như một đền thờ của Hindu không hơn không kém, và những đền thờ này chỉ được gi`n giữ chứ không bị phá hủy như trường hợp của Ấn Độ, do đó tại Nepal có nhiều ngôi chùa có giá trị rất lâu đời, măi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 thi` bấy giờ có một số những người Nepal đă làm một việc rất quan trọng, là đă rời Nepal sang Tích Lan để theo sự sắp xếp của Ngài Rananda, và một số các vị cao Tăng Tích Lan du học đạo Phật rồi trở về hoằng pháp tại Nepal. Ngày hôm nay thi` có hơn 200 Tăng sĩ Nepal theo truyền thống Phật Giáo Nam Tông và có hơn 28 ngôi chùa nằm rải rác khắp nơi từ Kathmandu chảy dài xuống Lâm Ty` Ni.

Thật ra thi` trong suốt cuộc phục hồi Phật giáo tại Ấn Độ, việc phục hưng Phật giáo tại Ấn Độ trong suốt 100 năm qua thi` có thể nói rằng hầu hết những vị Tăng sĩ của người Ấn và người Nepal đều tu theo truyền thống Phật giáo Nam Truyền. Ảnh hưởng của đời sống nhân dân Tây Tạng thi` một số tu theo truyền thống Mật Tông, nhưng phần lớn những vị tu theo Mật Tông và những Tăng sĩ Tây Tạng có chùa tại Nepal và Ấn Độ. Hầu hết các Tăng sĩ tại ấn Độ và Nepal hiện nay đều theo truyền thống Phật giáo Nam Tông.

Chúng tôi nói như vậy để qúi vị có một bối cảnh là Kathmandu thủ đô của Nepal chúng ta cũng ti`m thấy rất nhiều ngôi chùa tháp. Ngôi chùa tháp ở đây đặc biệt là những ngọn tháp với hi`nh cặp mắt nhi`n cuộc đời. Mắt ở đây tượng trưng cho Phật nhăn hay là huệ nhăn, có thể nói là một kiến trúc rất độc đáo của Nepal. Hơn 30 năm qua thi` chính phủ Nepal đă khởi đầu bằng nỗ lực có thể nói rằng như là một di sản tinh thần của ông Uthan, cựu Tổng Thư Ky' Liên Hiệp Quốc là người gốc Miến Điện, ông Tổng Thư Ky' này khi đặc chân đến thánh địa Lâm Ty` Ni đă cảm thấy hết sức xúc động, và ông đă đứng ra kêu gọi Liên Hiệp Quốc chú y' đến thánh địa này, nơi ra đời của vị Giáo Chủ của một tôn giáo mà theo ông Uthan, đó là một tôn giáo hoà bi`nh. Liên Hiệp Quốc đă hưởng ứng lời kêu gọi này, măi cho đến đầu thập niên 80 thi` bấy giờ Liên Hiệp Quốc mới đưa ra một dự án kiến tạo mà gọi là một trung tâm hoà bi`nh thế giới tại thánh địa Lâm Ty` Ni. Hơn 25 triệu Mỹ kim được chi ra cho dự án này, trong đó kể cả việc làm vườn và có một sơ đồ tổng quát, nhưng rồi tiền bạc thi` chi ra nhiều mà lại bị thất thoát, trong lúc đó thi` những công tri`nh xây cất hoàn toàn không đi đến đâu ở mức độ đáng kể, cả một khu vườn mà trong đó những vị nguyên thủ quốc gia, những vị Tổng Thống của các quốc gia khác đă đến đó trồng các thứ cây như cây soài cũng như cây sala và những cây khác tại đây, và bây giờ cũng không được chăm sóc đúng mức.

Cho đến đầu năm 1995 thi` bấy giờ người ta lại nảy ra một sáng kiến khác, thay vi` giao hết công việc trùng tu thánh địa cho chính phủ Nepal, cho những tổ chức tại Nepal và đồng thời thay vi` làm áp lực đối với chính phủ Nepal, thi` người ta đă làm khác đó là xây dựng những ngôi chùa Phật giáo quốc tế ở chung quanh thánh địa này. Ngày hôm nay chúng ta về thánh địa Nepal, có một điểm mà nếu người Phật tử là người đầu tiên đặc chân đến lấy làm lạ, là tại sao ở tại nơi chính thánh địa thi` từ hàng rào cho đến những công tri`nh xây cất tương đối là sơ sài, trong lúc đó thi` những ngôi chùa của các quốc gia Phật giáo, như là Phật giáo Miến Điện, Tích lan, Thái Lan, Đại Hàn, Nhật Bản và kể cả một ngôi chùa của chính phủ Bắc Kinh xây cất, thi` tất cả các ngôi chùa đều hết sức là nguy nga tráng lệ, bởi vi` có một nỗ lực rất lớn là làm áp lực, thay vi` những tổ chức Phật giáo quốc tế tiếp tục bỏ tiền vào trong thánh địa, thi` người ta lại tự xây cất những ngôi chùa lớp ở trung tâm, để nói với chính phủ Nepal rằng cộng đồng Phật tử thế giới có khả năng làm nhiều hơn nếu công tri`nh trùng tu thánh địa được quản trị một cách tốt đẹp. Phải nói rằng chính vi` điều này đă là một áp lực lớn để chính phủ Nepal chú y' nhiều hơn, và đă giảm thiểu đi một số quyền hành của các tổ chức trùng tu thánh địa là những tổ chức nhằm mục đích trục lợi nhiều hơn là giúp cho công việc trùng tu.

Năm 1996 một biến cố rất quan trọng đó là Phật giáo Nhật bản đă chi ra một số tiền rất lớn để làm một lúc hai việc, việc đầu tiên là ở bên trong thánh địa có một đền thờ gọi là MayaDevi tức là đề thờ của Phật mẫu, đền thờ này đă bị những người BàLaMôn chiếm hữu như là một cái đền BàLaMôn, và bấy giờ người ta ti`m cách thương lượng để rời ngôi đền đó ra bên ngoài, và ti`m cách khai quật. Dĩ nhiên với ly' do khai quật người ta đă có thể rời ngôi đền đó đi từng viên gạch một của đền thờ Mayadevi này được khai quật, cuối cùng vào năm 1996 người ta đă ti`m ra một phiến đá, và phiến đá đó đă đánh dấu nơi mà Đức Thế Tôn đă đặc chân xuống đầu tiên sau khi đản sanh trong cuộc đời của Ngài, ngay trong đền thờ của hoàng hậu Maya. Phiến đá đó đă được trang trọng để yên một chỗ, và những người Phật tử Nhật Bản đă bỏ tiền để sửa, xây dựng một lồng kính chung quanh để gi`n giữ phiến đá, có thể nói rằng vô cùng quan trọng này. Bên cạnh đó thi` người ta xây cất một ngôi đền mang tánh cách như Nepal để tri`nh lên phiến đá đó, như ngày hôm nay chúng ta về thánh địa chúng ta sẽ thấy được một ngôi đền màu trắng với cái tháp của người Nepal để bao trùm lên phiến đá đánh dấu nơi Đức Thế Tôn đặc dấu chân đầu đời của Ngài. Đồng thời bên cạnh đó là trụ đá của vua A Dục, ở trong trụ đá này vua A Dục đă đánh dấu rất kỹ năm thứ 20 sau lễ đăng quang, vua A Dục tự nhận chính mi`nh đă đến nơi này để hành hương đây là nơi đản sanh của bậc hiền thánh gio`ng Thích Ca, dân chúng ở chung quanh được miễn thuế 1/8, có thể nói rằng cột trụ đá của vua A Dục là phiến đá được kiếm thấy ở trong đền MayaDevi đă xác nhận cho chúng ta biết Lâm Ty` Ni là một thánh địa vô cùng quan trọng, chính nơi này Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni giáng trần.

Chúng ta cũng ti`m thấy trên thánh địa một hồ nước vuông vức, trong hồ nước này được ghi dấu theo trong sách Đại Đường Tây Vực Ky' và nhiều ky' sự quan trọng khác chính là nơi Phật mẫu Maya tắm sau khi sanh thái tử Sĩ Đạt Đa, bên cạnh đó cũng có một cây Asoka tức là cây vô ưu rất lớn. Ngày xưa nơi tảng đá mà Đức Thế Tôn chào đời, kế bên đó có một Sala, cây vô ưu rất lớn, nhưng bây giờ không co`n nữa, theo thời gian bởi vi` sự xây cất những đền tháp. Phái đoàn đặc chân đến thánh địa và tụng một thời kinh tại trụ đá của vua A Dục và sau đó vào trong đảnh lễ và đi diễu ba vo`ng quanh phiến đá đánh dấu nơi Đức Thế Tôn đản sanh, sau đó lên trên tháp để mọi người có một cái nhi`n toàn diện chung quanh thánh địa. Thánh địa hiện tại tương đối với công tri`nh xây cất, người ta đang đào một hồ lớn và cho chúng ta thấy rằng nhiều công tri`nh kiến thiết đang được xây dựng tại đây.

Phái đoàn lại sang ngôi chùa Nepal và ngôi chùa Tây Tạng đó là hai ngôi chùa tương đối quan trọng, riêng về ngôi chùa Nepal là một ngôi chùa lâu đời được xây dựng bởi người Phật tử Miến Điện, trong đó có sự hộ trợ rất lớn của ông cựu Tổng Thư Ky' Liên Hiệp Quốc ông Uthan, tại ngôi chùa chúng ta có gặp gỡ một vị Sư Cả tức là vị Phương Trượng Trụ Tri`, vị trụ tri` này là người của gio`ng Thích Ca và Ngài đă ở tại đó trong một thời gian hơn ba mươi mấy năm, năm nay Ngài gần 80 tuổi hạ lạp cao.

Rời ngôi chùa Nepal, phái đoàn đi thăm viếng những ngôi chùa chung quanh, có ngôi chùa Miến Điện, chùa Thái Lan, chùa Tích Lan cũng như chùa Đại Hàn và chùa Trung Hoa, nhưng trên đường đi có ghé thăm chùa Việt Nam của Thầy Huyền Diệu, và khi đến thăm chùa Việt Nam thi` đă có nhiều thi` giờ ở tại đó trong sự hiếu khách đúng là "tha hương ngộ cố tri". Khi gặp lại TT tại thánh địa thi` TT ân cần mời phái đoàn đi vo`ng chung quanh chùa, và giới thiệu rất nhiều sự sinh hoạt của chùa. Bởi vi` phái đoàn phải trở về khách sạn cho kịp bữa cơm trưa của Chư Tăng nên chương tri`nh đi thăm viếng những ngôi chùa khác đă không được thực hiện như đă dự định, do đó phái đoàn đă rời thánh địa Lâm Ty` Ni để trở về khách sạn dùng cơm trưa sau đó lại khởi hành đi Varanasi cu`ng ngày , phái đoàn ở lại khu vực lâm Ty` Ni chỉ có một đêm và một ngày thôi.

Khi phái đoàn đến thăm thánh địa Lâm Ty` Ni, thi` có một số tin tức chúng tôi đă thông báo với qúi vị là có một phiên họp thượng đỉnh Phật giáo đang được tổ chức tại Lâm Ty` Ni, chính phủ Nepal dự trù bỏ ra 13 triệu rupi, chính phủ Nepal đang rất cần thiết làm công việc này, bởi vi` sau khi vị vua trước bị thảm sát trong một biến cố co`n nhiều bí mật tại Kuthmandu, thi` vị vua mới lên và tiếp theo là phong trào nổi dậy của một số phiến quân Nepal, những người này tự xưng là Maoist tức là những người theo chủ nghĩa Mao Trạch Đông, tuy nhiên sau sự điều tra thi` những người này chỉ lấy Mao Trạch Đông làm biểu tượng chứ không có liên hệ gi` với chính phủ Trung quốc. Chính những người Maoist này đă gây ra rất nhiều tổn thất về kỹ nghệ du lịch cho Nepal trong thời gian vừa qua, và khiến cho số du khách đến Nepal càng lúc càng giảm đi, chính phủ Nepal hy vọng rằng nếu có hội nghị của Phật giáo tại Lâm Ty` Ni sẽ cứu văn lại ti`nh hi`nh hiện tại, du lịch là một nghề quan trọng tại xứ Nepal.

Cũng xin nói thêm một điều rằng khi chúng ta trở về chiêm bái thánh địa Lâm Ty` Ni nhi`n những người Nepal chính gốc thi` họ không giống người Ấn Độ, người Nepal giống người Việt Nam của chúng ta hơn người Ấn Độ, qúi vị có thể nhi`n người Ấn Độ hoàn toàn khác với chúng ta, nhưng người Nepal thi` rất giống người Việt Nam và Thái Lan. Có một số người đặc ra câu hỏi có phải chăng Đức Thế Tôn sanh ra ở trong phần đất Nepal thi` Ngài giống người Nepal và người Nepal thi` giống người Việt Nam, như vậy nếu chúng ta tạc tượng Phật giống người Việt Nam thi` có đúng với thời xưa không. Có nhiều việc mà chúng ta phải đưa ra tại đây, thứ nhất là quốc gia Nepal ngày nay chúng ta được biết nó là một lănh thổ được thiết lập sau từ vua Kalysac về sau này. Thời Đức Phật co`n tại thế như chúng tôi vừa tri`nh bày có bốn quốc gia nằm dưới chân Hy Mă Lạp Sơn đó là quốc gia Vajji quốc gia Koliya, quốc gia Malla và vương quốc Sakya là bốn vương quốc nằm ở tại đó, và biên giới của họ cũng như giữa vương quốc Koliya là họ ngoại của Đức Phật và vương quốc của gio`ng Thích Ca họ nội ngăn bởi con sông Rohini. Thi` con sông Rohini không có chảy ngang mà chảy dọc do vậy chúng ta không thể lấy lịch sử của thời xưa, cái minh định của thời nay để phân định thời xưa. Thứ nữa theo trong kinh thi` Đức Thế Tôn Ngài thuộc gio`ng dơi Sakiya tức là một chủng tộc mà chúng ta thấy ở tại Ấn Độ, nên chúng ta nói Ngài giống như người Ấn Độ chứ không giống như người Nepal. Về điểm này tuy có một chút cần tranh luận, nhưng cơ sở nói là Đức Phật giống như người Nepal thật sự thi` không phải, hơn thế nữa là thánh địa Lâm Ty` Ni chỉ nằm sâu trong lănh thổ Nepal chỉ trong vo`ng 15 hay 20 cây số, không có ly' do gi` để mà nói rằng biên giới ngày hôm nay xác định được chủng tộc của Đức Phật ngày xưa.



TT Giác Đẳng: (ngay 24 tháng 11 năm 2004) phái đoàn rời vườn Lâm Ty` Ni để đến Varanasi, Varanasi là một thành phố đặc biệt, không giống bất cứ thành phố nào khác ở trên thế giới, đây là nơi khai sinh ra cả ba tôn giáo, Ấn Giáo, Phật Giáo và Kiền Na Giáo. Varanasi nằm bên bờ sông Hằng, con sông dài đó chảy từ bắc xuống nam đổ ra vùng đông dân, tuy nhiên ở tại Varanasi thi` con sông chảy từ nam xuống bắc thi` có một tầm quan trọng. Đối với người Ấn Độ thi` Varanasi măi măi là thành phố của thiên thần, đúng ra chữ Varanasi chúng ta thường được biết ở trong bản chữ Hán là Ba Na Nại, trong kinh điển Pali gọi là Varanasi và chúng ta co`n biết đến một chữ gọi là Benares.

Tất cả những địa danh này liên quan đến một thành phố đă tồn tại liên tục ở trong hơn 3800 năm qua, có thể nói rằng khi một người du khách từ nước ngoài đặt chân đến Varanasi có thể ti`m thấy không khí không giống bất cứ một nơi nào đă đi qua, ở trên đường là những con bo` chen lẫn với người, với xe cộ, ở dưới bờ sông là những vị sadhu, những vị đạo sĩ Bà La Môn tụng kinh và khách hành hương đặc biệt ở trong mùa hành hương tấp nập từ tứ xứ trở về. Tại thành phố này có hai viện đại học lớn đó là đại học Sanskrit University và Hindus University đều là hai cơ sở học thuật có thể nói rằng vô cùng quan trọng với nền văn hoá Hindus và ngôn ngữ Sanskrit. Varanasi cũng nhiều dân, có nhiều pháp hội của những người Sadhu và những vị đạo sĩ Bà La Môn hàng năm về đó để mở những đạo tràng và thuyết giảng tri`nh bày quan điểm của mi`nh.

Ngày hôm nay người Phật tử cũng như không phải Phật tử trong những phái đoàn hành hương về Varanasi, trước nhất là để cảm nhận lại một thành phố mà quá đơn thuần ở trong nền văn hoá của đạo Phật đặc biệt là trong văn học Bổn Sanh. Văn học Jataka đă nhắc nhiều đến Varanasi, ở trong đó có những câu chuyện liên quan đến vua Brahmadatta liên quan đến tiền thân của Đức Bồ Tát. Thuở xưa Varanasi cũng co`n có một tên gọi là Kashi như ở trong kinh Thánh Cầu và trong nhiều kinh khác chúng ta nghe Đức Phật Ngài kể lại đời niên thiếu của Ngài là một vị thái tử, tơ lụa của Ngài được đặt đến từ Kashi tức là từ Varanasi, tơ lụa Varanasi không phải nổi tiếng từ xưa, mà ngày hôm nay cũng vậy. Rất khó để chúng ta cảm nhận được sự vĩ đại về lịch sử của thành phố này, chỉ cảm nhận rằng ở đó có rất nhiều người sống không phải chỉ đơn giản vi` miếng cơm manh áo mà họ co`n những lẽ sống tinh thần. Có thể nói rằng tại Ấn Độ nhiều người chỉ có một ướt mơ rất đơn giản, là được chết tại Varanasi và xác thân được hoả táng bên bờ sông Hằng, rồi di thể của mi`nh được tuông xuống bờ sông Hằng.

Phái đoàn về tới Varanasi trời rất tối, ở khách sạn một đêm rồi sáng hôm sau lúc 5:30 thức dậy để ra sông Hằng. Sông Hằng trong kinh tạng thường gọi là Gonga, chúng ta có một thành ngữ "Hằng hà sa số" tức là nhiều như số cát của sông Hằng, tiếng Anh thi` gọi là Vansi người Ấn Độ gọi là một cách ngắn là sông Gonga, Gonga là một con sông có thể nói rằng chứa đựng bao nhiêu là huyền thoại, chứa đựng bao nhiêu là niềm tin. Với buổi sáng tinh sương, xuống thuyền để đi dọc theo bên bờ sông Hằng, chúng ta có thể cảm nhận ở đó cả một chiều dài lịch sử với bao nhiêu là đền thờ, cung điện xây dựng dọc theo bờ sông Hằng. Bên tả ngạn thi` như vậy, co`n bên hữu ngạn dường như là trống không, không xây cất bất cứ một cái gi`, bởi một ly' do rất đơn giản là từ phía bên này người ta có thể nhi`n thấy mặt trời mọc lên bên kia, và với nhiều người thi` mặt trời mọc ở sông Hằng vào buổi sáng sớm tinh sương cho chúng ta có một cảm giác rất thần bí, sự thần bí đó một phần của thiêng liêng, một phần của con người. Dù sao đi nữa thi` thành phố này nơi khai sinh của ba nền tôn giáo lớn của Ấn Độ và trong đó Phật giáo đă ảnh hưởng toàn cầu, có thể nói sông Hằng trở nên một con sông, một địa danh làm cho Varanasi đi vào trong huyền thoại, điều đó không ai có thể phủ nhận được.

Ở trên sông Hằng người ta không nhi`n thấy những ghats, ghats có nghĩa là bến tàu, theo dư luận thi` có hơn 200 ghats như vậy, và những ghats này nối tiếp nhau liên tục, mỗi ghats mang một tên khác nhau liên quan đến một thời ky` lịch sử. Có những ghats đă đi vào trong lịch sử, người ta không co`n nhớ và không co`n tài liệu ghi nhận về ghats này có tên, chỉ biết một điều rằng tất cả những điều đó đều có một cái gi` đặc biệt trong quá khứ. Dọc theo bờ sông Hằng trên những ghats người ta có thể nhi`n thấy nơi hoả táng những di thể, người ta thiêu những xác chết mà khói lên vào buổi sớm khiến cho chúng ta khó quên được hi`nh ảnh đó, rồi một hi`nh ảnh vô cùng đặc biệt của sông Hằng, những xác chết này sau khi hoả táng có khi chưa thành tro cốt, nếu chỉ hoả táng một cách sơ sài rồi sau đó được đẩy xuống sông Hằng. Thỉnh thoảng chúng ta cũng ti`m thấy những chiếc bè, và ở trên những chiếc bè này là tử thi và người ta đốt gỗ của chiếc bè đó, chiếc bè đó khi bị cháy sẽ chi`m xuống lo`ng sông trong khi xác chết chưa được thiêu hủy hoàn toàn, phái đoàn đă nhi`n thấy hai xác chết nổi lên trong lúc đi thăm viếng sông Hằng.

Dọc theo bờ sông Hằng vào buổi sáng sớm, mặc dầu trời tương đối lạnh vẫn có rất nhiều người xuống đó để tắm ở dưới sông Hằng gọi là lễ tẩy trần hay phép tịnh thủy, nghĩa là dùng nước thiêng của sông Hằng để rửa đi phiền năo, dĩ nhiên là những sự thực hành này mang tính tôn giáo của Bà La Môn. Chúng ta cũng nhi`n thấy những vị đạo sĩ, những người sadhu ngồi ở trên bờ sông Hằng vào buổi sáng để thực hành điểm mucca tức là những buổi tế lễ và những tiếng cầu kinh vang vọng ở đó đây bên bờ sông Hằng.

Sau khi viếng sông Hằng phái đoàn trở về khách sạn dùng cơm rồi đến thánh địa Salanath, Salanath nằm cách Varanasi chừng 21 cây số, và ở tại Salanath có thể nói rằng đây là một trong những thánh địa đầu tiên mà tướng Kalaso Kenlinghan đă khai quật và tại nơi này ấn dấu ky` tích của Ngài Dharmapala một vị Tăng sĩ người Tích Lan đă đến đây trong giai đoạn đầu khổ sở thế nào để dành thánh địa này từ người ngoại đạo giáo trở về cho người Phật tử. Sàranàth ngày hôm nay vẫn co`n giữ được rất nhiều di tích quan trọng ở trong đó có bảo tháp Dhamekh đánh dấu nơi Đức Thế Tôn gặp lại năm anh em Kiều Trần Như. Chúng ta cũng thấy tháp Dharmaràjika một bảo tháp đánh dấu chính nơi Đức Thế Tôn đă giảng bài kinh Dhammacakkappavattanasùtra tức là bài kinh Chuyển Pháp Luân, bài kinh đầu tiên và chính ở tại đó đánh dấu sự ra đời của đạo Phật. Chúng ta cũng ti`m thấy tháp Dharmarajika của vua A Dục nơi này nhà vua đánh dấu Đức Phật đă làm một cuộc hội họp ở trong đó có 60 vị thánh đệ tử và Ngài đă kêu gọi mỗi người hăy đi một ngă, vi` lợi ích của Chư Thiên và nhân loại, không đi hai người chung một con đường, đó là phái bộ truyền giáo đầu tiên mà Đức Thế Tôn đă gửi các vị Thánh Tăng đi. Phải nhi`n nhận một điều rằng vào lúc thánh địa Dharmarajika chúng tôi đă nhắc lại với qúi Phật tử về một sự việc là những vị Thánh nhân đó đă ở dưới chân Đức Phật không lâu, chỉ một thời gian rất ngắn và Ngài đă gửi các vị đi như những vị sứ giả để sao giảng về thông điệp của từ bi giải thoát và giác ngộ, nếu những vị này không phải thật sự là những vị đă chứng, không phải là những vị đă có những thành tựu về đạo quả thi` Đức Phật đă không gửi đi trong thời gian ngắn như vậy, đó là điểm mà chúng ta phải ghi nhớ.

Bên cạnh bảo tháp Dharmarajika của vua A Dục, chúng ta ti`m thấy trụ đá của vua A Dục, và trong trụ đá đó đă có một phát hiệu được ghi là tất cả những ai mà phạm tội chia rẽ tăng thi` người đó sẽ bị tổng xuất và phải mặc y màu trắng như là để chuộc lỗi, điều đó chứng tỏ một nỗ lực của vua A Dục trong sự gi`n giữ đoàn kết của Tăng lữ. Nhưng điều đặc biệt quan trọng là chính tại chung quanh trụ đá này người ta đă khai quật được một đầu tượng đá Sivin đầu tượng đá Sivin đó hiện đang được kinh tàng trong Salanath Meseum.tức là viện bảo tàng nằm kế bên thánh địa. Chính đầu tượng đá Sivin này gồm có bốn con sư tử ngó về bốn hướng, ở dưới là bánh xe Pháp Luân và hi`nh ảnh của con ngựa, con trâu, con voi, những hi`nh ảnh biểu chưng cho liên quan đến kinh điển của đạo Phật, và tượng đá này được tạc bằng đá chunar, với một công tri`nh có thể nói là tuyệt mỹ. Đứng trước đầu tượng đá Sivin trong viện bảo tàng, không có ai trong phái đoàn không thán phục những tác phẩm của những nghệ nhân cách đây 23 thế kỷ đă làm lên một tác phẩm tuyệt mỹ như vậy. Ngày hôm nay tượng đá Sivin này đă được chọn làm quốc huy của đất nước Ấn Độ và bánh xe Pháp Luân in trong đầu tượng đá Sivin đă được trang trọng in vào quốc ky` của Ấn Độ, ngày nay nếu chúng ta nhi`n quốc ky` của Ấn Độ chúng ta nhi`n thấy bánh xe Pháp Luân đó.

Tại bảo tàng nơi chứa quốc bảo của Ấn Độ, chúng ta phải nói rằng ở bên trong viện bảo tàng cũng co`n gi`n giữ một pho tượng Phật chuyển Pháp luân, đây là một pho tượng nữa là thùy điêu nữa là tượng và pho tượng này tạc với một nét tuyệt mỹ, không có quyển sách nào về nghệ thuật Phật giáo mà không có hi`nh ảnh của pho tượng này.

Sau khi rời viện bảo tàng Sàranàth thi` phái đoàn đến chiêm bái Mulagandhakuti nơi mà Đức Thế Tôn đă an cư mùa hạ đầu tiên của Ngài sau ngày thành đạo, và bây giờ thi` Mulagandhakuti vào đầu thế kỷ 20 đă được xây dựng với tiền phát tâm cúng dường của một người đàn tín người Hoa ky` ở tại Hawái, và có thể nói rằng kiến trúc hết sức là độc đáo mang đường nét kiến trúc của Phật giáo Ấn Độ, không giống như bất cứ kiến trúc nào của Tích Lan, của Thái Lan, Miến Điện, Nhật Bản, Trung Hoa, mà một cách rất là Ấn Độ nhưng hết sức là Phật Giáo. Kiến trúc của Mulagandhakuti đă gợi cho chúng ta được những gợi y' hết sức quan trọng về một kiểu mẫu nghệ thuật về kiến trúc đạo Phật tại Ấn Độ. Ở tại nơi này cũng là nơi gi`n giữ một viên xá lợi Phật bên nha khảo cổ Anh quốc, vị này đă làm việc tại Ấn Độ ti`m thấy được tại Taxila và giao lại cho hội Hama bồ đề, và hội Hama Bồ Đề đă gi`n giữ viên xá lợi tại đây. Vị chư khách cho chúng tôi biết rằng Ngài có thể sắp xếp để phái đoàn có thể chiêm bái xá lợi của Ấn Độ này, tuy nhiên phải vào buổi tối khi mà không có người, rất tiếc là phái đoàn phải rời thánh địa ngày hôm đó nên đă không ở lại để có túc duyên chiêm bái xá lợi có lịch sự rất rơ ràng này.

Phái đoàn cũng đi tản bộ chung quanh để chụp ảnh và thăm một pho tượng của Ngài Dharmapala một người mà có thể nói rằng đă có công rất lớn ở trong những tháng ngày đầu của cuối thế kỷ thứ 19, đă lặn lội không biết bao nhiêu gian khổ để vận động chính phủ Anh quốc và chính phủ địa phương để làm thế nào để trả những thánh tích Phật giáo trở về cho những người Phật tử, có thể nói rằng đă gây không biết bao nhiêu tai hoạ phải gánh chịu và cuối cùng thi` những gi` mi`nh để lại khiến cho chúng ta ngày nay đặt chân đến không thể không cảm kích về một con người với tất cả hùng tâm mănh liệt và tạo không biết bao nhiêu là lợi lạc cho những người Phật tử mai hậu