Chùa Pháp Luân
Pt Minh Hanh chuyển biên
Trang Diệu Pháp - TT Giác Đẳng tường tri`nh -
Pháp Âm (Audio)
Hành Tri`nh Về Phương Đông
TT Giác Đẳng: (tiếp theo)Khi phái
đoàn hành hương rời Lộc Uyển để
đi New Dehli thi` phái đoàn đă không đi bằng xe lửa
mà bằng phi cơ, bay từ phi trường Varanasi đi
Agra. Agra là cố đô của Ấn Độ, sau khi quân đội
Hồi giáo chiếm Ấn Độ họ đă lập ra một
triều đại cực thịnh,chúng ta gọi là Moghuls.
Những triều đại này gồm có những vị
vua Hồi giáo biết tận dụng kỹ thuật của
thế giới Hồi giáo thời bấy giờ, từ thế
kỷ thứ 14 cho đến thế kỷ thứ 16, trong
hai thế kỷ này thi` nền văn hoá của Hồi giáo
trở lên cực thịnh, không những về văn học
nghệ thuật mà ngay cả về phương diện kỹ
thuật. Bên cạnh đó thi` các vị vua Hồi giáo lại
tận dụng được hai nguồn có thể nói rằng
phong phú của Ấn Độ đó là nhân sự, một xă hội
rất đông đảo và một mảnh đất rất
phi` nhiêu và có rất nhiều nghệ nhân. Trong thời đại này đă lập
ra những vị vua Hồi giáo mà chúng ta gọi là những
vị Moghuls, ngày hôm nay trong tiếng Anh khi đề cập
đến những vị Moghuls, thi` chúng ta hiểu rằng
có những người thành công ở một điểm
gi` đó, nhưng thật sự thi` ở triều đại
Moghuls là những triều đại đặc biệt rất
thành công, tương tựa như triều Măn Thanh của
Trung Hoa, người Măn Châu được xem như người
ngoại tộc, không phải là người Hán, nhưng
đă khéo léo để có thể cai trị được
người Hán đồng thời cũng tạo ra một
nền văn minh rực rỡ về phương diện
kinh tế, chính trị, xă hội và nghệ thuật.
Agra là một trung tâm
cầm quyền cai trị cả Ấn Độ trong một
thời gian dài và chúng ta được nghe về một
câu truyện bi kịch của vua Shah Jehan , một vị
vua rất thương yêu người vợ của mi`nh,
đă xây dựng một đền gọi là Taj Maha. Taj Maha
tức là Lady Taj chỉ cho tên của Hoàng Hậu, đây là
một thiên ti`nh sử đầy nước mắt,
nhưng đặc biệt là diễm lệ ở trong lịch
sử của Ấn Độ. Vua và Hoàng Hậu có với nhau
14 người con, và đến khi sanh đứa con thứ
14 thi` bà bị sản hậu và qua đời, trong niềm
thương cảm không khuây của một vị quân
vương, nhà vua đă cho xây dựng một công tri`nh
để làm lăng tẩm cho người vợ của
mi`nh. Không biết có bao nhiêu con số để có thể
nói được hết những chi tiết, người
ta chỉ biết rằng công tri`nh đó mất hơn 20
năm và với một số thợ hơn 20 ngàn, trong
đó có những thợ bật nhất của Ấn Độ
về kiến trúc, về chạm trổ. Nói chung là nhà vua
đă tận dụng một số dân quân rất lớn ở
trong thời gian dài để xây dựng ngôi đền vĩ
đại này. Những miếng thạch qúi được
chạm trỗ ở đây có thể ti`m thấy đến
từ Y' và Hy Lạp, Trung Hoa, và tất cả kết hợp
để trở thành một ky` quan của thế giới.
Bước vào Taj
Maha thi` người ta thường có hai cảm giác đầu
tiên đó là một sự kinh ngạc, cho dù mi`nh thấy rất
nhiều hi`nh ảnh về Taj Maha, nhưng Taj Maha thật ở
bên ngoài thi` quả thật đă cho chúng ta một ấn
tượng khó có thể diễn tả bằng lời, bên
cạnh đó thi` chúng ta lại nhi`n thấy một bi kịch
khác của nhân loại, một khi mà một số quá
đông những người dân nghèo được tuyển
mộ để xây dựng một công tri`nh mà có thể nói
rằng cùng xa cực sỉ của những vị vua chúa
thời xưa, chỉ có một thời đại quân chủ
mà nhà vua có nhiều mệnh lệnh quyền hành giàu có mới
có thể làm được điều này.
Câu chuyện đó nó
lại khiến cho khách hành hương vừa cảm thấy
thoải măn tại vi` mi`nh đến Ấn Độ và
trước khi rời Ấn Độ lại đến
thăm một ky` quan nhân tạo mà có thể nói rằng bối
cảnh quan trọng tiêu biểu cho Ấn Độ. Bên cạnh
đó thi` người Phật tử hành hương lại
có một cảm giác rất là tương phản với
chuyến đi hành hương ở đọan đầu,
đến thăm Bồ Đề Đạo Tràng, mặc dù ở
chung quanh thánh địa Bồ Đề Đạo Tràng có bao nhiêu
ngôi chùa lớn, mặc dù ngay cả tại Bồ Đề Đạo
Tràng mà nghĩ đến ngôi đại tháp Mahabodhi stupa
được tạo trước đây 2300 năm của
vua A Dục và được trùng tu về sau này, thi` chúng
ta cũng không đánh mất được hi`nh ảnh của
một vị quân vương rời bỏ ngai vàng sống
trong rừng sâu núi thẳm, Ngài đă ngồi dưới cội
Bồ Đề trên một mớ cỏ tranh và đắc
thành đạo quả vô thượng.
Ngày hôm nay hàng triệu
người của bao nhiêu thế hệ, hàng hàng lớp lớp
về đó để ti`m thấy lại được một
cái gi` đó co`n vang động lại, về một con
người có những giờ phút sống rất yên lặng
trầm tư dưới cội Bồ Đề. Ngài đă hoàn
toàn không xây dựng cho chúng ta một công tri`nh như Vạn
Ly' Trường Thành của Tần Thủy Hoàng, như Taj
Maha, như Kim Tự Tháp, nhưng phải nhận là cội
nguồn tâm linh mà Ngài để lại nó lớn hơn nhiều,
nó sâu xa hơn nhiều và nó bền bỉ hơn nhiều và
sự cảm nhận nó rộng lớn hơn. Cứ nhớ
lại thánh địa Bồ Đề Đạo Tràng mà hàng ngày
có nhiều Phật tử ở khắp thế giới, da
trắng có, da đen có, da vàng có, Á Châu có, Âu Châu có, về tụng
kinh niệm Phật tại thánh địa. Sự vĩ
đại của Đức Phật không thể đo bằng
thước, và chúng ta nghiêng mi`nh đảnh lễ Đức
Phật, không phải chỉ là dùng con mắt của người
phàm mắt thịt của chúng ta để mà so sánh chùa bao
lớn, công tri`nh nguy nga đến đâu. Cái gi` mắt thấy tai nghe và
hi`nh ảnh bên ngoài không được đủ cho phép
chúng ta lượng định được sự vĩ
đại của Đức Phật. Có thể nói rằng mỗi
một lần trở về thánh địa Bồ Đề Đạo
Tràng trong tâm tư hoà nhập với không khí của thánh
địa, cái sự cảm nhận của chúng ta mỗi
lúc nó càng khác đi, phải nói đó là một nguồn sống
vô tận, cái nguồn sống hầu như không bao giờ
hết.
Một vị quân
vương bỏ ngai vàng để sống đời sống
hết sức giản dị hàng ngày với chiếc y và
cái bi`nh bát trên tay, và với một vị quân vương
đă có thời đă hét ra lửa và xây dựng một công
tri`nh để tưởng tiếc người vợ của
mi`nh, chúng ta không đem một vị Phật ra so sánh với
một vị vua bi`nh thường, nhưng chúng ta đem
hai cảm giác khi chúng ta đứng trước hai công
tri`nh, chúng ta nhớ lại những lời dạy rất
thâm thúy của Đức Phật, khi Tôn Giả Ananda thưa với
Đức Phật tại sao Ngài không viên tịch ở một
thành phố lớn như Vương Xá, như Xá Vệ,
như Kapilavatthu. mà Ngài lại viên tịch tại Kusinara, Đức
Phật ôn tồn dạy cho Ngài Ananda biết rằng cái lớn
cái nhỏ nó vốn chỉ là thời gian và giai đoạn. Xưa kia Kusinara đă từng là
kinh đô tráng lệ của một vị vua Thiện Chiến bây giờ là
kinh đô khiêm tốn của vua Malla, và đó là thời Đức
Phật, bây giờ chúng ta trở lại Kusinara là một thị
trấn rất nhỏ mà chúng ta được biết rằng
khi xa xưa đó, nơi
đây là chốn bị rêu phong bụi phủ, một
đêm hoang vắng không người, vật đổi sao
rời ít có ai sống với những điều đó, sống
một cách tỉnh táo, sống vượt lên trên những
điều đó, nhưng Đức Thế Tôn đă làm
được như vậy.
T
Thông điệp của
Ngài không phải là dễ hiểu đối với thế
gian này, tuy nhiên bằng sự cực ky` khéo léo, chánh pháp
được thiện thuyết, Đức Thế Tôn đă
cho những thế hệ về sau chia sẻ vị ngọt
của chánh pháp, vị ngọt đó không giống như
chúng ta thưởng thức một ky` quan của thế giới,
như Taj Maha, như Kim Tự Tháp, chúng ta có thán phục
nhưng khi ra về trong lo`ng rất là rỗng không.
Chúng tôi có những lần
dẫn phái đoàn đến Vạn Ly' Trường Thành,
có thời người ta lên án Vạn Ly' Trường Thành,
nói về giọt nước mắt của nàng Mạnh
Khương, nói về sự tàn bạo của các vị
vua và nói về công tri`nh chống giặc Hung nô, cũng có thời
ky` người ta lên án đó là sản phẩm của chế
độ phong kiến, rồi sau đó người ta xem
nó như là một sự thành tựu của một ky` tích
của nền văn hoá Trung Hoa, người ta có nhiều
cái nhi`n khác nhau, nhưng cái nhi`n đó nó không có cái gi` bền
chặt, không có một giá trị gi` bất tuyệt, nó chỉ
dựa lên trên một biên kiến , một khiá cạnh nào
đó mà nói. Trong lúc đó thi` lời dậy của Đức
Phật có đôi lúc có thể cảm nhận được,
ngay cả khi đứng trước một nền gạch
rất đơn sơ. Có một lần trên ngọn Linh Thứu
sơn đứng một mi`nh trước nền cốc
am thất nơi Đức Thế Tôn đă từng ở, bây
giờ chỉ co`n những viên gạch, những viên gạch
của một di tích thôi, nhưng những viên gạch
đó thật sự có y' nghĩa quá lớn, mà có những lần
chúng tôi đứng trước ky` quan của thế giới
khác không ti`m thấy một cảm nhận như vậy.
Có thể nói rằng
đến thăm Taj Maha để lại là một tâm sự
ngổn ngang trong lo`ng nếu bất cứ ai đến
đó mà đă đi qua một chuyến hành hương và bỏ
thi` giờ ra suy nghĩ . Sau khi thăm Taj Maha phái đoàn lại
được sang thăm cổ thành Agra, chính tại cổ
thành này vua Shah Jehan đă bị đứa con của mi`nh
giam cầm trong 8 năm trời trước khi ông mất,
8 năm đó ông đă sống trong một biệt điện
nơi mà ngày xưa ông đă xây cất cho đứa con gái
thân yêu của mi`nh, bây giờ bị giam trong đó, và có một
giáo đường nhỏ nằm kế bên ông có thể ra
đó làm lễ, nó nối liền với một phần của
nhà Agra Fort này. Và từ nơi này buổi sáng và buổi chiều,
nhất là buổi chiều ông có thể nhi`n thấy Taj Maha
bên kia nơi chôn người vợ yêu qúi của mi`nh, một
người mà có thể nói rằng ông xem nặng hơn cả
việc nước. Có nhiều người đến họ
đă cảm nhận được một cái ti`nh
thương đó, có người Phật tử nói với
chúng tôi rằng không biết ông vua Shah đó có tàn bạo
đến mức độ nào, nhưng lo`ng yêu
thương người vợ thi` đáng làm cho hậu thế
cảm động.
Dĩ nhiên là ở
trong một cái bi kịch nào nó cũng để lại cho
chúng ta ít nhiều cái hỷ nộ ái ố, nhưng phải
nói rằng nhi`n công tri`nh lớn và nhi`n nơi đă giam cầm
nhà vua, nhi`n lại vết chân của cổ nhân nó là cả
một câu chuyện ngổn ngang, nó làm chúng tôi nhớ tới
bài phú cung A Pho`ng khi tiếc về một thời vàng son của
nhà Tần, một thời hoang phí cùng cực của vua Tần
khi lập ra cung A Pho`ng, rồi một thoáng nó lại trở
thành mây khói và người về sau đă để lại
một án văn, chúng ta hy vọng rằng sẽ có một
dịp nào đó sẽ được đọc lại,
chúng nghe một cái gi` nao nao khi đọc lại những
bi tích của nhân loại, và chính giờ phút mi`nh ti`m lại
được những sự tương phản là tại
sao Thái tử Siddhattha đă không lựa chọn ngai vàng và
Ngài cũng không lựa chọn chiếc ghế giáo chủ ở
trong hội chúng của hai vị đạo sư Alara
Kalama và Uddaka Ràmaputtamà, Ngài đă lựa chọn một mớ
cỏ tranh dưới cội Bồ Đề, sự việc
đó rất là đơn giản, nhưng nó cho chúng ta rất
nhiều suy tư.
Phái đoàn rời
Taj Maha vào buổi trưa để rồi tối hôm đó
đặt chân tới New Delhi, chúng tôi tới New Delhi ky` này
phải nói rằng hết sức tiếc bởi vi` bận
rộn cho nhiều điều, thứ nhất là có y' định
đến thăm Bhante Satyam
là vị giảng sư trong rơom Diệu Pháp, chúng
tôi rất cảm kích ơn đức của Ngài khi nhận
lời vào giảng trong rơom này, bản thân là một vị
khoa trưởng của Phật Học viện tại New
Delhi và Ngài cũng dành thi` giờ và tấm lo`ng lân mẫn
để vào giảng cho rơom, chúng tôi rất muốn gặp
để đảnh lễ cúng dường và nói lên sự
cảm kích đối với Ngài, và thứ nữa để
gặp sư cô Liễu Pháp cũng là một vị làm việc
cho rơom, nhưng vi` thi` giờ quá ngắn chúng tôi không có
y' liên lạc với Ngài, nếu gặp Ngài tại khách sạn
mời Ngài đến để gặp chúng ta thi` không phải
lẽ, đáng lẽ chúng tôi phải có thi` giờ đến
tận tư thất của Ngài để đảnh lễ
thăm viếng. Và thật sự chương tri`nh có thay
đổi vào giờ chót, đúng ra phái đoàn có một
ngày tại New Delhi nhưng rốt cuộc chỉ vọn vẹn
trong vo`ng hai tiếng đồng hồ, chúng tôi có gặp
sư cô Liễu Pháp và một số Tăng sinh ở New
Delhi, rồi sau đó phái đoàn vội vă lên đường
ra máy bay để trở về Bangkok.
Chúng tôi sẽ bắt
đầu bài tường tri`nh về chuyến đi Trung
quốc vào ngày mai. Trong chuyến đi hành hương Ấn
Độ ky` này phái đoàn chỉ đi thăm được
5 thánh tích, ở trong đó có 4 đại thánh tích là Bồ
Đề Đạo Tràng nơi Đức Thế Tôn thành đạo,
Kusinara nơi Ngài viên tịch, Lâm Ty` Ni nơi Ngài đản
sanh và Varanasi nơi Ngài chuyển Pháp Luân, phái đoàn cũng
được đến Vaisali. Và một chuyến đi
như vậy rất là hạn chế thời gian.