A Tỳ Đàm, Bài 15.II.3   Ngày 18 tháng 9 năm 2004

 

Chánh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính

 

Bài 15

Nhóm Thuộc Tánh Bất Thiện

Sở hữu bất thiện những sở hữu chỉ hợp với các tâm bất thiện, gồm 14 sở hữu tâm, được chia làm năm nhóm:

II Sở hữu Tham phần


Ngã Mạn

 

 

TT Trí Siêu : Hôm nay chúng ta học về tâm sở ngã mạn. Khi chúng ta nói về thuộc tính ngã mạn có những vấn đề chúng ta cần phải lưu ý tìm hiểu về ý nghĩa trong phạm trù nguyên sơ của nó, sau đó chúng ta mới tìm ý nghĩa quản diễn nói rộng ra theo tính cách của thường thức hay theo nội dung của kinh tạng.

 

Trước hết chúng ta tím hiểu ý nghĩa của tâm sở ngã mạn (TSNM) trong tâm sân,TSNM này nó thuộc tham phần cho nên thuộc tánh củaTSNM này chỉ phối hợp với tâm tham ly tà hay tâm tham không có tương ưng với tà kiến  mà thôi. Tâm tham có bốn thứ tâm tương ưng với tà kiến và bốn thứ tâm tương ưng với bất tà kiến . Ngã mạn không có đi chung với tà kiến được,do vậy cho nên trong bốn tâm tham tương ưng tà kiến hay bốn tâm tham hợp tà thì không bao giờ có ngã mạn và ngã mạn chỉ tham gia trong tâm thambất tương ưng tà kiến hay còn gọi là tâm tham ly tà mà thôi.Không phải lúc nào tâm tham ly tà sanh khởi đều có tâm sở ngã mạn, bởi vì TSNM là thứ tâm sở bất định. Nếu như trong một trạng thái tâm sanh khởi, trong đó có khuynh hướng tự cao tự đắc thì như vậy mới gọi là có TSNM phối hợp.Thực ra thì TSNM nó câu sanh với các tâm sở khác ở trong một sat-na tâm tham.Nó chỉ trợ cho các tâm khác bằng câu sanh duyên hay hổ tương duyên chứ không có tính chất đặc biệt của riêng nó.Khác với tà kiến khác với tham tâm sở .

 

 Tham tâm sở ngoài câu sanh duyên tức là đồng sanh duyên , hổ tưong duyên thì nó còn trợ duyên cho các pháp đồng sanh bằng cách Hetupaccayo  là nhân duyên . Tà kiến thì ngoài đồng sanh duyên , hổ tương duyên, còn trợ duyên cho các tâm đồng sanh khác bằng cách đồ đạo duyên Maggapaccayo. Riêng về ngã mạn thì nó chỉ trợ cho như vậy thôi,vì nó đông sanh nên giúp qua giúp lại. Khi chúng ta định nghĩa về vấn đề này thì chúng ta không nói rằngTSNM làm cho các pháp đồng sanh có sự kiêu mạn hay là tự cao tự đắc, rõ ràng tâm sở ngã mạn có vị trí độc lập của nó, không trợ duyên cho pháp nào khác bằng cánh là ngã mạn mà bản thân của nó hiện hữu ở trong tâm tham sanh khởi để làm vai trò tự cao tự đắc.

 

Kiêu hãnh cũng là ý nghĩa của ngã mạn, chúng ta nên lưu ý rằng với danh từ chúng ta gọi là ngã mạn (màna) nên dịch là mạn hay kiêu mạn  thôi, không nên dịch là ngã mạn,bởi vì ngã mạn tức là kiêu mạn cho rắng tôi là Amhi mới đúng là ngã mạn. Nếu chúng ta dùng từ ngã mạn ở đây để chúng ta nói thì vị Tu Đà Hườn đã diệt trừ thân kiến không chấp có tôi có ta có bản ngã trong ngũ uẩn nữa thì trong trường hợp đó chúng ta thấy có vần đề lấn cấn  Tại sao trong mười kiết sử thì ngã mạn phóng dật và vô minh nằm trong năm thượng phần kiết sử thì chỉ có vị Ala Hán mới đoạn trừ được, còn bậc hữu học vẫn còn māna. Thế thì nếu màna dịch là ngã mạn thì trong trường hợp đó chúng ta sẽ bối rối khi mà người ta hỏi chúng ta rằng nếu vị Tu Đà Hườn còn ngã mạn thế tại sao gọi là diệt trừ thân kiến . Vì thếchúng tôi đề nghị nên dịch là kiêu mạn.

 

Thật ra cái gì chúng ta dùng đã quen rồi thì khó mà chỉnh sửa được như từ ngã mạn, chúng ta không cần biết là nó phải dịch đúng nghĩa từ một danh từ nào. Như từ màna khi phân loại adhi mana hay adhino mana chúng ta khó phân biệt được tăng thượng mạn hay là quá mạn hay là ngã mạn , chúng ta nên chú ý một chút về vấn đề này.

 

Ngã mạn là một thuộc tánh nó có trạng thái tự cao , phận sự của ngã mạn là nâng lên như ta có nghe nói dựng cột phướng dưng cột cờ, người ngả mạn giống như người dựng cột cờ muốn cho người khác nhìn thấy biểu tượng của lá cờ, vua quan đi đến đâu cũng trương cờ để mọi người thấy đón tiếp. Đối với người kiêu mạn cũng như thế đó.luôn luôn họ tự đề cao tự đắc.Phận sự của ngã mạn là nêu cao bản thân.Sự hiện bày của kiêu mạn là có sự tự hào sự kiêu hãnh dầu cho kiêu hãnh cách nào di nữa.Chúng ta cố gắng phân tách ý nghĩa dể thấy rằng dầu đối với một vị sơ quả nhị quả tam quả một vị hữu học cũng khộng diệt trừ được tánh kiêu mạn. Tuy nhiên chúng ta hãy định nghĩa một cách hết sức là nhẹ nhàng màna là sự so đo, sự so sánh. Khi mà còn có sự so đo so sánh giũa bản thân mình với người khác và phân biệt sự cao thấp hay là có sự ỷ lại và tự đắc tự đề cao thì đều gọi là sự ngã mạn cả.

 

Cho dù những bậc thánh hữu học TưĐàHàm, AnaHàm khi nghĩ đến sự việc gì vẫn có sự tự hào mặc dù các vị đã thấy pháp đã đạt đến pháp. Các vị không đến nỗi quá hống hách kiêu mạn đến mức độ mà xem trời bằng vung không có kỉnh lễ các bậc samôn bà la môn hay là không kỉnh lệ Đức Phật , không kỉnh kễ giáo pháp không kỉnh lễ tăng chúng.Kẻ phàm phu thường tình khi mà có tâm kiêu mạn sẽ chậm tiến,họ không có óc cầu tiến để học hỏi.Luôn luôn cho mình là cao rồi là đủ rối. bậc thánh hữu học chỉ thoáng qua có nghĩa là trong một khía cạnh nào đó khi nhìn chúng sanh khác vẫn có sự so sánh, vẫn cảm thấy tự mãn với những gì mình thành tựu được.Lại nữa tánh kiêu mạn của phàm phu có thể làm cho người này không tiến bộ được nhưng đối với bậc hữu học một khi mà các ngài đả chứng đắc được quả Tu ĐàHườn rồi thì các ngài không luân hồi quá bảy kiếp.Nghĩa là ở đâu chánh pháp được thuyếtgiảng thì ở đó bậc Tu Đà Hườn luôn luôn có sự tuân phục .kính lễ và lắng nghe. Thậm chí đối với một cư sĩ Tu Đà Hườn, khi mà vị đó nghèo chỉ cần chén cơm no bụng trong ngày hôm đó nhưng hễ thấy chư tỳ khưu tăng một trong ba ngôi báu đi trì bình thì những vị thánh cư sĩ đó vẫn cúng dường chén cơm không nghĩ đến bản thân .

 

Đó là sự so sánh giữa tâm kiêu mạn cũa kẻ phàm phu thường tình với tâm kiêu mạn vẫn còn của bậc thánh hữu học. Một bên nặng có thể gây tác hại, đầu độc cho tư tưởng  , một bên nhẹ không gây nên tác hại ,không đầu độc tư tưởng làm cho các Ngài chùng bước.Những chúng sanh thường tình có thể đứng trước mặt Đức Phật, họ không biết được uy lực của Đức Phật, họ không thể nào khuất phục Đức Phật lúc ban đầu do tánh kiêu mạn của họ kiêu mạn về dòng giống,dòng ba-la-môn hay dòng sát-đế-lị.Họ kiêu mạn về tài năng hay kiêu mạn về tài sản trước mặt đức Thế tôn, cho nên bao giờ họ cũng có sự khinh thị nếu họ chưa đắc được quả vị sau khi nghe pháp thì họ vẫn có tâm kiêu mạn đó, nhưng đới với vị Tu-Đà-Hườn thì khác, tuy vẫn còn tâm kiêu mạn nhưng sự kieu mạn đó đã nhẹ đã muội lược rồi và vị này không thể nào đứng trước mặt Đúc Thế tôn khởi lên tư tưởng là sẽ tranh luận với ngài,hay phủ nhận bác bỏ những điều ngài nói.

 

về tính cách của ngã mạn, Sư Trưởng đã cho thí dụ.Chúng tôi không cần thiết phải trình bày vấn đề này nữa . Chúng tôi chỉ tóm tắt trong vấn đề kiêu mạn (màna) có ba trường hợp và từ đó đưa đến chín trường hợp:

                                Hơn ỷ hơn

1/ Kiêu mạn rằng ta hơn            Hơn ỷ bằng

(Kiêu mạn có tính cách hơn)           Hơn ỷ thua 

  

                     Bằng ỷ hơn,

2/Kiêu mạn rằng ta bằng           Bằng ỷ bằng,

(Kiêu mạn có tính cách bằng)      Bằng ỷ thua

 

                     Thua ỷ hơn

3/Kiêu mạn rằng ta thua            Thua ỷ bằng

(Kiêu mạn có tính cách thua)       Thua ỷ thua                    

 

Chúng ta thấy rõ rằng trong trường hợp này đã nói đến vấn đề kiêu mạn (màna), cho dù mình không hơn được người khác mình có sự thua sút ,nhưng với ý chí bao giờ cũng có sự tự cao đề cao.Chẳng hạn những người tự ái,cũng được gọi là người kiêu mạn,một người tự ái không muốn cho người khác nói cham đến mình cũng là kiêu mạn,và một người dầu cho họ nghèo khổ, thua sút thiên hạ nhưng mà bao giờ họ cũng có khuynh hướng là tự đề cao mình dầu cho họ chấp nhận họ thua người khácnhưng không phải bằng thiên chí tâm phục khẩu phục , trong sự chấp nhận thua vẫn có sự kiêu mạn như trong Cổ học tinh hoa có ghi lại câu chuyện như Sư Trưởng kể ở trên.Trong trường hợp này chúng ta thấy với người thua sút người khác hay là mặc cảm mình thấp hơn người khác thế nhưng trong thân tâm của họ bao giờ cũng có sự kiêu mạn chứ không thể nào tránh được.Hễ còn là kẻ phàm phu thì phải như vậy. Thậm chí là bậc hữu học cũng không đoạn trừ được tâm kiêu mạn. Đó là mhững ý nghĩa mà chúng ta phải bàn qua trong bài học ngày hôm nay.